NHỮNG LOẠI MỰC DÙNG IN VẢI SỢI
Có 2 loại mực dùng
in vải sợi,loại tan trong dầu gọi plastisol và
loại tan trong H20 gọi là water base
inks.
Cần lưu ý mực in vải khác với thuốc
nhuộm vải goị là dyestuff.
Thuốc nhuộm nếu muốn dùng in trên vải
thì phải pha trộn với chất keo thành dạng sền sệt có độ nhảo
viscosity thích hợp tuỳ theo vải khung gọi là mesh count rồi mới in lên
vải được.Tuỳ theo loại thuốc nhuộm,công thức cần phải pha trộn
them vào đó một số hóa chất khác nữa.
Còn mực in thì luôn luôn ở trạng thái sền sệt hoặc nhão có công thức căn bản như sau.
Plastisol base hoặc Water base + bột màu gọi là pigment concentrate là mực in
I- PLASTISOL– là
chất nhựa Polyvinyl
Chloride viết tắt PVC ở trạng thái phân tán gọi
là dispersion có hạt rất nhỏ cở từ 0.5
tới 2 microns trộn chung với chất làm mềm gọi là plasticizer. Chất
làm mềm được xử dụng nhiều nhất có tên là phthalate.
Chất
plastisol trộn với plasticizer được gọi là base có
đặc tính kết hợp các hột bột màu pigments thành một màng mỏng liên
tục và bám chắc vào mặt vải khi in.
Sau khi in xong, mực plastisol phải được
cho chạy qua máy sấy bằng hơi nóng trong một thời gian theo qui định.
Khi bị hấp nóng trong lúc di chuyển
không ngừng trong máy sấy,chất plastisol trở nên mềm ra và phồng lên
trong chất plasticizer rồi hút
hết chất plasticizer bọc quanh.Khi chất plasticizer bị hút hết thì các
hạt plastisol mới dính vào nhau tạo ra một màng đều đặn và bám
dính vào vải in.
Cơ chế nầy xãy trang ở nhiệt độ
thích hợp từ 300-350 *F trong 3 phút,
Đây là một điểm quan trong mà chuyên viên phải ghi nhớ thuộc lòng khi điều chỉnh nhiệt độ máy sấy và tốc độ băng tải chạy xuyên qua lò sấy trước khi cho lệnh máy in khởi sự hoạt động. Các chất pha trộn trong mực plastisol sẽ bắt đâu sôi và bốc hơi ở nhiệt độ 400 *F và sẽ gây độc hại cho công nhân.
Trong công thức căn bản nêu trên tùy theo tình huống, có thể pha thêm vào đó chất độn filler, chất khuếch tán extender, chất ổn định đối với ảnh hưởng của ánh sáng và nhiệt độ gọi là stabilizer to light and heat.
II-CÁC LOẠI MỰC CHẾ TẠO TỪ
PLASTISOL BASE.
* Plastisol
puff mực sẽ phồng lên sau khi chạy qua máy sấy
ở nhiệt độ thích hợp 310-330*F.
* Plastisol
haftone. Mực phải có đặc tính quan trọng thứ nhất
là độ trong suốt goi là transparency nghĩa là ánh sáng khi xuyên qua
mực không bị phân tán. Lý tưởng
nhất là ánh sáng xuyên qua lớp mức, chạm vào vải rồi dội trở ra
theo đường thẳng.
Đặc
tính thứ hai cần phải là có độ bóng láng gọi là gloss.Loại mực nầy dùng in những bức hình chụp bằng máy
ảnh, gồm có 4 màu gọi là “ Four
colors process” .Đó là magenta,yellow,
cyan và black.
* Plastisol fast fusion dùng
in những loại vải cần phải sấy ở nhiệt độ thấp 270*F như
acrylic và nylon rất mỏng để không bị cháy hoặc co rút..
* Plastisol heat transfers dùng
in trên giấy rồi giấy được in qua vải bằng sức ép 40-45 PSI và nhiệt
độ 375*F như dùng bàn ủi tay hoặc bàn ép nóng. Giấy phải là loại
đặc biệt không hút ẩm và có lớp sáp để có thể lột được dễ
dàng sau khi ép vào vải.
* Plastisol fluorescent dùng
in những màu sáng nổi. Nhóm nầy plastisol trộn với organic fluorescent
pigments.
* Plastisol phosphorescent
dùng in những màu ban đêm dưới ánh đèn sẽ phát
quang.
* Plastisol sparkles, Plastisol glitters, Plastisol
shimmers, Plastisol metallics dùng in
những hình vẽ có chớp sáng như kim lọai. Mực thuộc nhóm nầy
sấy ở nhiệt độ thấp nên phải dùng loại Plastisol
fast fusion base.
* Plastisol discharge.Có một số màu của vải đã nhuộm, chúng ta có thể bóc ra bằng cách in một lớp plastisol discharge.Sau khi in ,lớp nầy được làm khô sơ sài rồi chúng ta in chồng lên đó những màu khác.Phương pháp nầy áp dụng cho những loaị vải nhuộm màu đen hoặc màu quá đậm.
III- MỰC HOÀ TAN TRONG NƯỚC GỌI LÀ Water
base inks
1- Water base inks là
mực hòa tan trong nước dùng cho kỹ nghệ in vải sợi đã xuất hiện tại USA từ
lâu có thể nói 50-60 năm rồi.
Riêng tại bang California vì có luật ngăn cấm gây ô nhiểm nên các nhà sãn xuất
water based inks đã tìm đủ moị cách để nghiên cứu cải tiến sãn phẩm của họ mong
có nhiều cơ sở in vải sợi mua xữ dụng.
Cấu tạo của water based ink là hổn hợp chất
keo dính (binder) ở độ pH cao,tan được trong H20 goị là alkali soluble resin trộn với chất chống mốc meo,chất extender,chất thickener,chất retardant ngăn
ngừa khô quá nhanh và pigments.
Kể từ năm 2009 theo kết
quả đã xử dụng tại xí nghiệp, người viết bài nầy nhận xét water based inks của Matsui Shikiso Chemical Co. Japan gần
đạt độ hòan chỉnh về xữ dụng tiện lợi và màu sắc đẹp hơn những công ty khác.
2-Water discharge base là gì?.
Trong vòng 12 năm nay, để đáp ứng theo đòi
hỏi của thị trường đã có thêm một loại base hoà tan trong nước gọi là Water discharge base.
Discharge là phản ứng hóa học xóa bỏ màu của thuốc đã nhuộm vải.
Phản ứng sẽ xãy ra khi trộn base với một hóa chất bột màu trắng tên là ZFS ( zinc
formaldehyde sulfoxylate ) rồi in lên vải màu ở nhiệt độ180*F.
Chỉ có màu của một số thuốc nhuộm vải được
xóa bỏ mà thôi. Do đó trước khi xữ dụng discharge base phải tham khảo tài liệu
của nhà cung cấp sản phẩm đã nhuộm những màu đậm như màu đen, màu navy, màu
burgundy. Nếu không có hòan cảnh để tham khảo tài liệu thì chỉ cần tự mình thực
hiện trắc nghiệm tại cơ xưởng.
Tại sao dùng discharge base ?
Để tránh khuyết điểm đó chúng ta in một lớp discharge
base lên vải rồi sấy đủ khô. Màu đậm biến mất ,chỗ in trở thành màu trắng hơi
nâu. Các màu kế tiếp được lần lược in lên đó. Sau khi qua lò sấy, bức hình in sẽ
xuất hiện hòan toàn, trông mềm mại và đẹp hơn cách in thông thường. Đó là lý do
cần phải dùng discharge base.
3-Cách pha trộn và kỹ thuật xử dụng discharge base.
Discharge base có dạng sền sệt như cháo sửa.Khi nào cần cho sản xuất thì mới đem pha trộn với ZFS theo phân lượng qui định của nhà chế tạo .
Thông thường cứ 100 gr discharge base thì trộn 4 -8 gr ZFS. Nếu pha nhiều ZFS thì màu của bức hình in sẽ thay đổi.. Khuấy trộn cho thật đều bằng tay hay máy trộn và chỉ xử dụng trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Quá thời gian đó discharge base không cho kết quả tốt.
4-Những khó
khăn khi dùng discharge base.
Vì discharge base hoà tan trong
nước và phải pha trộn với bột hóa chất độc hại ZFS cho
nên khi xữ dụng muốn có kết quả như ý muốn đương nhiên sẽ gặp khó
khăn cần phải vượt qua như sau theo kinh nghiệm của người viết tài
liệu nầy.
* Khung in phải có mesh
count #160 -175 và có lớp stencil tráng bằng
loại water resistant emulsion . Sau
khi qua giai đọan rọi ánh sáng và rữa hình , khung in cần phải
khô ráo bằng cách thổi hơi ép và phơi ra ngoài trời trong vài giờ để
Ultra Violet làm tăng thêm độ cứng và sức chịu đựng của stencil. Nếu
không làm đúng như vậy thì lớp tráng stencil sẽ đứt bể không thể
in được.
* Tìm cách điều
chỉnh góc độ, sức ép và tốc độ của squeezees để
lớp discharge base trải đều trên mặt vải và không cho thấm sâu
xuyên tới mặt bàn in gọi là printing palette để tránh
nước trong discharge base làm hư hại nhanh chóng lớp giấy dán trên mặt
bàn in.
* Điều chỉnh nhiệt độ và thời gian của bộ phận sấy sơ bộ gọi là flash cure unit làm thế nào khì sờ ngón tay trỏ vào lớp discharge base không cảm thấy dính tay. Làm như vậy để tránh discharge base còn ước dính vào các khung in kế tiếp.Tuỳ sản phẩm , thời gian nầy khoảng 1 giây nhưng thời gian cần cho phản ứng discharge xảy ra đế bóc màu dưới flash cure là 30 giây (seconds).
* Khi thấy lớp discharge base trải không
đều thì lấy giấy nhúng nước lau sạch mặt đáy của vải khung.
* Sau khi lớp discharge base vừa đủ khô
, chúng ta tiếp tục in những màu kế tiếp như thường lệ.
Sau đó vải vừa in xong phải cho ngay
vào lò sấy đã được điều chỉnh tốc độ của băng tải thế nào để cho
vải phải ở trong đó tối thiểu 90 giây
gọi là minimum dwell time.
* Mùi bốc ra từ sản phâm gây khó chịu
nhức đầu nên chỗ in phải thóang và lò sấy phải được tthoát khí theo
tiêu chuẩn qui định. Những hóa chất bốc ra từ discharge base gồm
có CO,CO2,Sulfur dioxide,Zinc oxide
* Tránh thổi gió vào khung in làm mực
khô nhanh trên khung.
* Sả̃n phẩm in xong cần phải được giặt sạch
hóa chất thặng dư mới đem xử dụng.