GIA ĐÌNH NHA SĨ TIẾP-THU
1-THIỆN NGUYỆN QUÁ KHỨ HOÀN THÀNH
Năm 1967 Viện Định Chuẩn được thành lập trực thuộc Bộ Công Kỹ Nghệ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1972 Viện được đổi tên là Viện Quốc Gia Định Chuẩn,một cơ quan công lập tự trị có tư cách pháp nhân trực thuộc Bộ Thương Mại và Kỹ Nghệ. Tính đến ngày 30-4-1975 Viện đã ban hành 120 tiêu chuẩn quốc gia.
GIA ĐÌNH NHA SĨ TIẾP-THU
1-THIỆN NGUYỆN QUÁ KHỨ HOÀN THÀNH
I-HỌC THIỀN THEO KINH LĂNG GIÀ (LANKARA
SUTRA)
Trong vủ tru rộng lớn bao la không có chổ khởi đầu và không có chổ chấm dứt, Từ xa xưa loải người trên địa cầu nầy đã nhận thấy , vặt chất hửu hình và tinh thần vô hình trong vù trụ có thể được tóm gọn thành ba nhóm là 6 trần, 6 căn và 6 thức.
Tư duy về ba nhóm đó là yêu chỉ
của kinh Lăng Già (Lankara Sutra) chí dạy chung sanh tự thấy
mình vô ngả.
Ngài Suzuki viết :
“Chủ đề của Kinh Lăng Già là khai thác nội dung của Ngộ, nghĩa là cảnh giới tự giác của đức Phật, và cũng là
chân lý tối thượng của Đại Thừa giáo. Lạ thật, hầu hết các học giả nghiên cứu
kinh này đều không mấy quan tâm đến
điểm chủ yếu
TRONG
QUÁ KHỨ KINH LĂNG GIÀ ĐƯỢC DỊCH TỪ TIẾNG HOA SANG TIẾNG VIỆT BỞI 3
HOÀ THƯỢNG LÀ THÍCH THANH TỪ,THÍCH DUY
LỰC VÀ THÍCH CHƠN THIỆN.
CÒN
DỊCH TỪ TIẾNG PHẠN SANSCRIT SANG TIẾNG ANH THỈ ̀ CÓ NGÀI SUZUKI.
CẢ 3
BẢN DỊCH NẦY HIỆN NAY TÔI (HENRY DƯƠNG) ĐANG CÓ TRONG TỦ CHỨA KINH
SÁCH .
Trong Kinh Lăng Già.
Sáu Thức gọi là Tâm, gọi là Năng. gọi là Tàng thức.
Sáu Trần goị là Trần Cảnh, gọi là Sở.
Sáu thức vì vô hình tướng nên sáu
căn của loài ngươi không thể thấy trực tiếp được; nhưng chỉ nhặn thấy
có sáu thức xuất hiện khi nào 6 căn gặp 6 trần mà thôi và gọi sáu
thức là Tâm.
Trong Kinh Lăng Già ,tất cả 6
trần, 6 căn và 6 thức đều nằm trong cái gương câu duy nhưt to lớn bao
trùm ca hư không và có tánh phản chiếu như gương câu
thuỷ tinh (crystal ball ).
Cái gương to lớn không ngằn mé gọi
là Pháp Thân, goị là Chân Như, gọi là Như Như, gọi là Thiên Chúa, gọi là Đức Thương Đế.
Do vọng đông vi vô minh muốn tự biết mình trong cái gương câu
sáng nên Tâm đã hiện hửu trong gương từ vô thuỷ nên bóng của Tâm là
cảnh giới sáu trân cũng hiến hửu cùng một lược với Tâm từ vô thủy.
Thân loài người có sáu căn cấu tạo
bới tứ đại đắt nước gió lửa lẩy từ cảnh giới saú trần được coi
như một dụng cụ hửu cơ vừa làm gương để soi sáu trần vừa làm
cho Tâm là bóng của thân xuất hiện
Kinh Lăng Già nhấn mạnh :
(Trang 109-Kinh Lăng Già-Thiền
Sư Hàm Thị giảng)
“Theo
Tàng thức trôi lăn thì có, không trong mộng rỏ ràng
Đạt cảnh giới thánh trí thì Năng, Sở trong gương
liền không “.
(Tàng thức là Tâm, là sáu
thức. Năng là Tâm. Sở là sáu trần)
Trong gương cầu sáng gọi là Pháp
Thân , nếu chúng sanh lẩy 6 căn của thân là mình thì
có bóng là 6 thức hiện ra là của mình.
Thân là tứ đại đắt, nước, gió
và lửa giả hợp, sanh rồi diệt, Saú
trần cũng sanh và diệt nên saú thức tức là Tâm
vì là bóng nên cũng sanh rồi diệt.
Do đó khi chúng sanh thấy rỏ chẳng có gì trong ba nhóm 6 căn, 6 trần và 6 thức để
ôm lấy làm của mình thì đạt cảnh giới của Thánh
Trí.
Thiền Sư Hi Vận nói.
Phàm phu thủ cảnh, đạo nhơn thủ tâm.
Quên cảnh thỉ dể, quên
tâm rất khó.
Con người không dám quên
tâm vì sợ rơi vào cái không, không chổ để mò vớt.
Biết đâu rằng cái không
vốn không phải không, chỉ là nhất chân
pháp giới.
Trên đỉnh núi Lăng Già ngoài biển
khơi xứ Ấn Độ, Chúa thành Lăng Già tên là Ravana hỏi Đức Phật :
“Bạch Đức Thế Tôn noí cho con biết
cái trạng thái tâm chứng đạo của Đức Thế Tôn như thế nào ?”
Đức Phật :"Đó cũng như nhìn thấy bóng mình trong gương hoặc trên nước, cũng như nhìn bóng mình trong ánh trăng hoặc ánh đèn, lại nữa, cũng như nghe tiếng nói của mình dội lại trong thung lũng; hễ vọng cầu thì có vọng tưởng phân biệt phải trái; hễ có phân biệt phải trái thì không thoát khỏi thế kẹt hai đầu, tự nhiên chấp cái phải, nên tinh thần không thể “tịnh” được. Tịnh có nghĩa là lắng sạch hết sở cầu (hoặc hòa đồng với muôn vật); và lắng sạch hết sở cầu có nghĩa là đi sâu vào định, tự đó phát sanh thánh trí tự giác, và đó tức là Như Lai Tạng: Tathagatagarba.”
II-NHỮNG DỊCH GIẢ KINH LĂNG GIÀ
Người viết bài nầy dựa theo tài liệu đã xuất bản năm 1987 và năm 1994.Theo tài liệu nghiên cứu của Ngài Suzuki, Kinh Lăng Già dịch vào khoảng năm 113 bởi ngài Câu Na Bạt Đa La( GUNABHADRA) là bản kinh cổ nhất, rất phức tạp, rất khó khăn. Đó là bản kinh mà Ngài Huệ Khả đã nhận được từ tay Ngài Bồ Đề Đạt Ma coi như tâm ấn của Phật.
1-Dịch giả Thích Thanh Từ. Xuất bản năm 1975.
Đầu xuân
1975,xuất hiện Kinh Lăng Già Tâm Ấn có sớ giải của Thiền Sư Hàm Thị viết bằng tiếng Hoa được dịch
ra tiếng Việt bởi Thiền Sư Hòa Thượng Thích Thanh Từ.
Tài liệu
cho biết Thiền sư Hàm Thị thuộc môn phái Tào Động, đời nhà Thanh bên Trung Hoa.Môn
phái nầy du nhập vào Huế năm 1696 bởi Hoà
Thượng tên là Thạch Liêm người gốc tỉnh Giang Tây Trung
Hoa.
Chúa Nguyễn sai Hòa Thương Nguyễn Thiều sang Trung Hoa thỉnh Ngài Thạch Liêm về ngự tại chùa Thiên Mụ ở Huế để dạy đạo.Sau hai năm ở Huế, Ngài Thạch Liêm trở về lại Trung Hoa.Di tích lịch sử nầy còn ghi lại tại chùa Thiên Mụ Huế.
Năm 1645 Ngài Kim Vô cùng với chư đệ Thạch Giám đã đến Lảnh Nam để thưa hỏi Ngài Hàm Thị về Duy Thức học rồi thỉnh Ngài sớ giải. Chưa tìm được tài liệu viết về Ngài Kim Vô và Ngài Thạch Giám.
Trong cuốn kinh Lăng Già Tâm Ấn, sớ giải của Ngài Hàm Thị gồm ba phần.
Phần tự giới thiệu về Ngài, phần tổng luận và phần sớ giải viết dưới lời Đức Phật dạy và lời thưa hỏi của Ravana chúa thành Lăng Già và của Đại Huệ Bồ Tát(Mahamati) .
Khi dịch kinh từ tiếng Hoa ra tiếng Việt, Hòa Thương Thích Thanh Từ có viết trong lời tựa câu ”Độc giả thông được bài tổng luận coi như nắm được yếu chỉ bộ Kinh Lăng Già”
2-Dịch giả
Thích Duy Lực. Xuất bản
năm 1994
Dịch giả viết trong lời tựa “Yếu chỉ của Kinh nây là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo,...”
3- Dịch giả Thích Chơn Thiện dịch từ bản
tiếng Anh của Ngài Suzuki.
Trang 558-Tâm phải được xem lả một hình ảnh phản chiếu từ thời vô thủy; bản chất hiện hửu giống như một hình ảnh xuất hiện trong một tấm gương.
Trang 221-Các hình ảnh trông thấy trong một tấm gương, trong nước, trong một con mắt, trong một cái chậu và trên một viên ngọc; nhưng ở trong các thứ ấy không có hình ảnh nào để thủ chấp cả.
III-TÌM HIÊU TÂM PHẬT NHƯ BÓNG
TRONG GƯƠNG TRONG CÁC BỘ KINH PHẬT
1-Kinh Lăng Nghiêm (Ngài Trí Độ và Ngài Tuệ Quang dịch).
Trang 531.-Ông Anan ! Người thiện nam tử đó tu tam ma đề và samatha, sắc ấm hết, nhìn thấy tâm chư Phật như trong gương sáng hiển hiện các vật.
Trang 559-Xem các núi sông đại địa ở thế gian như gương soi sáng. Vật đến không bị dính, vật đi không còn dấu vết. Đến thì soi, đi thì mất, như gương soi các vật. Rỏ ràng tập khí về trần cảnh không còn. Chỉ còn một thể tinh chân.
2-ĐẠI THỪA BÁ PHÁP MINH MÔN LUẬN.
(Luận Đại Thừa Một Trăm Pháp)
Cuốn “Đại Thừa Bá Pháp Minh Môn Luận Chuế Ngôn” viểt bằng chữ Nho được Sư Cụ THẬP THÁP Chùa Long Khánh tỉnh Quy Nhơn trao cho Hoà Thượng Thích Thiên Hoa năm Đinh Mão 1957 với lời nó́i :
“Tôi biếu Ngài một cái chìa khóa để mở kho Duy thức. Người nghiên cứu Duy thức mà không đọc trước Luận nầy thì cũng như gỡ nùi tơ rối mà
không tìm được mối. Vậy Ngài nên đọc Luận
nầy cho kỹ rồi nghiên cứu THÀNH DUY THỨC. Ngài sẽ thấy dễ
dàng...”
Những năm trước đó khi Hoà Thương Thích Thiện Hoa còn học Đạo tại tỉnh Long
Xuyên có nhận từ Sư Cụ Tuyên Linh Lê
Khánh Hòa một cuốn “ Đại
Thưà Bá Pháp Minh Môn Luận ”
nhưng đọc không hiểu gì nên đã kể lại sự khó khăn với Sư Cụ THẬP THÁP khi gặp Ngài tại Quy Nhơn.
Năm 1958, Hoà Thượng Thích Thiện
Hoa dịch
cuốn “ Đại Thừa Bá Pháp Minh Môn Luận
Chuế Ngôn” từ chữ Nho ra việt ngữ.
Yếu chỉ của DUY THỨC HỌC là phân tách Tàng Thức thành 8 tám
thức riêng biệt là:
Nhản thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thực,
Thân thức, Y thức, Tàng thức (còn được gọi là Alạigia hay Adana)
và Manas thức (có nhiệm vụ liên lạc giữa 6 thức với thức thứ tám
gọi là Tàng thức),
Nhiệm vụ của tám thức theo bài kệ
rất dễ hiểu như sau.
“Anh
em tám chú một chàng si (Thức
thứ bảy).
Duy
có ý thức rất linh ly ( Khôn
ngoan).
Năm
người ngoài cửa lo buôn bán (Năm
thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân).
Làm
chủ trong nhà Đệ Bát Y (Thức
thứ tám) “
Kệ
viết bằng chử Nho:
“Bát cá huynh đệ nhứt cá si
Độc hữu nhứt cá tối linh ly
Ngũ cá môn tiền tố mãi mại
Nhứt cá gia trung tác chủ y “
NHỮNG LOẠI MỰC DÙNG IN VẢI SỢI
Có 2 loại mực dùng
in vải sợi,loại tan trong dầu gọi plastisol và
loại tan trong H20 gọi là water base
inks.
Cần lưu ý mực in vải khác với thuốc
nhuộm vải goị là dyestuff.
Thuốc nhuộm nếu muốn dùng in trên vải
thì phải pha trộn với chất keo thành dạng sền sệt có độ nhảo
viscosity thích hợp tuỳ theo vải khung gọi là mesh count rồi mới in lên
vải được.Tuỳ theo loại thuốc nhuộm,công thức cần phải pha trộn
them vào đó một số hóa chất khác nữa.
Còn mực in thì luôn luôn ở trạng thái sền sệt hoặc nhão có công thức căn bản như sau.
Plastisol base hoặc Water base + bột màu gọi là pigment concentrate là mực in
I- PLASTISOL– là
chất nhựa Polyvinyl
Chloride viết tắt PVC ở trạng thái phân tán gọi
là dispersion có hạt rất nhỏ cở từ 0.5
tới 2 microns trộn chung với chất làm mềm gọi là plasticizer. Chất
làm mềm được xử dụng nhiều nhất có tên là phthalate.
Chất
plastisol trộn với plasticizer được gọi là base có
đặc tính kết hợp các hột bột màu pigments thành một màng mỏng liên
tục và bám chắc vào mặt vải khi in.
Sau khi in xong, mực plastisol phải được
cho chạy qua máy sấy bằng hơi nóng trong một thời gian theo qui định.
Khi bị hấp nóng trong lúc di chuyển
không ngừng trong máy sấy,chất plastisol trở nên mềm ra và phồng lên
trong chất plasticizer rồi hút
hết chất plasticizer bọc quanh.Khi chất plasticizer bị hút hết thì các
hạt plastisol mới dính vào nhau tạo ra một màng đều đặn và bám
dính vào vải in.
Cơ chế nầy xãy trang ở nhiệt độ
thích hợp từ 300-350 *F trong 3 phút,
Đây là một điểm quan trong mà chuyên viên phải ghi nhớ thuộc lòng khi điều chỉnh nhiệt độ máy sấy và tốc độ băng tải chạy xuyên qua lò sấy trước khi cho lệnh máy in khởi sự hoạt động. Các chất pha trộn trong mực plastisol sẽ bắt đâu sôi và bốc hơi ở nhiệt độ 400 *F và sẽ gây độc hại cho công nhân.
Trong công thức căn bản nêu trên tùy theo tình huống, có thể pha thêm vào đó chất độn filler, chất khuếch tán extender, chất ổn định đối với ảnh hưởng của ánh sáng và nhiệt độ gọi là stabilizer to light and heat.
II-CÁC LOẠI MỰC CHẾ TẠO TỪ
PLASTISOL BASE.
* Plastisol
puff mực sẽ phồng lên sau khi chạy qua máy sấy
ở nhiệt độ thích hợp 310-330*F.
* Plastisol
haftone. Mực phải có đặc tính quan trọng thứ nhất
là độ trong suốt goi là transparency nghĩa là ánh sáng khi xuyên qua
mực không bị phân tán. Lý tưởng
nhất là ánh sáng xuyên qua lớp mức, chạm vào vải rồi dội trở ra
theo đường thẳng.
Đặc
tính thứ hai cần phải là có độ bóng láng gọi là gloss.Loại mực nầy dùng in những bức hình chụp bằng máy
ảnh, gồm có 4 màu gọi là “ Four
colors process” .Đó là magenta,yellow,
cyan và black.
* Plastisol fast fusion dùng
in những loại vải cần phải sấy ở nhiệt độ thấp 270*F như
acrylic và nylon rất mỏng để không bị cháy hoặc co rút..
* Plastisol heat transfers dùng
in trên giấy rồi giấy được in qua vải bằng sức ép 40-45 PSI và nhiệt
độ 375*F như dùng bàn ủi tay hoặc bàn ép nóng. Giấy phải là loại
đặc biệt không hút ẩm và có lớp sáp để có thể lột được dễ
dàng sau khi ép vào vải.
* Plastisol fluorescent dùng
in những màu sáng nổi. Nhóm nầy plastisol trộn với organic fluorescent
pigments.
* Plastisol phosphorescent
dùng in những màu ban đêm dưới ánh đèn sẽ phát
quang.
* Plastisol sparkles, Plastisol glitters, Plastisol
shimmers, Plastisol metallics dùng in
những hình vẽ có chớp sáng như kim lọai. Mực thuộc nhóm nầy
sấy ở nhiệt độ thấp nên phải dùng loại Plastisol
fast fusion base.
* Plastisol discharge.Có một số màu của vải đã nhuộm, chúng ta có thể bóc ra bằng cách in một lớp plastisol discharge.Sau khi in ,lớp nầy được làm khô sơ sài rồi chúng ta in chồng lên đó những màu khác.Phương pháp nầy áp dụng cho những loaị vải nhuộm màu đen hoặc màu quá đậm.
III- MỰC HOÀ TAN TRONG NƯỚC GỌI LÀ Water
base inks
1- Water base inks là
mực hòa tan trong nước dùng cho kỹ nghệ in vải sợi đã xuất hiện tại USA từ
lâu có thể nói 50-60 năm rồi.
Riêng tại bang California vì có luật ngăn cấm gây ô nhiểm nên các nhà sãn xuất
water based inks đã tìm đủ moị cách để nghiên cứu cải tiến sãn phẩm của họ mong
có nhiều cơ sở in vải sợi mua xữ dụng.
Cấu tạo của water based ink là hổn hợp chất
keo dính (binder) ở độ pH cao,tan được trong H20 goị là alkali soluble resin trộn với chất chống mốc meo,chất extender,chất thickener,chất retardant ngăn
ngừa khô quá nhanh và pigments.
Kể từ năm 2009 theo kết
quả đã xử dụng tại xí nghiệp, người viết bài nầy nhận xét water based inks của Matsui Shikiso Chemical Co. Japan gần
đạt độ hòan chỉnh về xữ dụng tiện lợi và màu sắc đẹp hơn những công ty khác.
2-Water discharge base là gì?.
Trong vòng 12 năm nay, để đáp ứng theo đòi
hỏi của thị trường đã có thêm một loại base hoà tan trong nước gọi là Water discharge base.
Discharge là phản ứng hóa học xóa bỏ màu của thuốc đã nhuộm vải.
Phản ứng sẽ xãy ra khi trộn base với một hóa chất bột màu trắng tên là ZFS ( zinc
formaldehyde sulfoxylate ) rồi in lên vải màu ở nhiệt độ180*F.
Chỉ có màu của một số thuốc nhuộm vải được
xóa bỏ mà thôi. Do đó trước khi xữ dụng discharge base phải tham khảo tài liệu
của nhà cung cấp sản phẩm đã nhuộm những màu đậm như màu đen, màu navy, màu
burgundy. Nếu không có hòan cảnh để tham khảo tài liệu thì chỉ cần tự mình thực
hiện trắc nghiệm tại cơ xưởng.
Tại sao dùng discharge base ?
Để tránh khuyết điểm đó chúng ta in một lớp discharge
base lên vải rồi sấy đủ khô. Màu đậm biến mất ,chỗ in trở thành màu trắng hơi
nâu. Các màu kế tiếp được lần lược in lên đó. Sau khi qua lò sấy, bức hình in sẽ
xuất hiện hòan toàn, trông mềm mại và đẹp hơn cách in thông thường. Đó là lý do
cần phải dùng discharge base.
3-Cách pha trộn và kỹ thuật xử dụng discharge base.
Discharge base có dạng sền sệt như cháo sửa.Khi nào cần cho sản xuất thì mới đem pha trộn với ZFS theo phân lượng qui định của nhà chế tạo .
Thông thường cứ 100 gr discharge base thì trộn 4 -8 gr ZFS. Nếu pha nhiều ZFS thì màu của bức hình in sẽ thay đổi.. Khuấy trộn cho thật đều bằng tay hay máy trộn và chỉ xử dụng trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Quá thời gian đó discharge base không cho kết quả tốt.
4-Những khó
khăn khi dùng discharge base.
Vì discharge base hoà tan trong
nước và phải pha trộn với bột hóa chất độc hại ZFS cho
nên khi xữ dụng muốn có kết quả như ý muốn đương nhiên sẽ gặp khó
khăn cần phải vượt qua như sau theo kinh nghiệm của người viết tài
liệu nầy.
* Khung in phải có mesh
count #160 -175 và có lớp stencil tráng bằng
loại water resistant emulsion . Sau
khi qua giai đọan rọi ánh sáng và rữa hình , khung in cần phải
khô ráo bằng cách thổi hơi ép và phơi ra ngoài trời trong vài giờ để
Ultra Violet làm tăng thêm độ cứng và sức chịu đựng của stencil. Nếu
không làm đúng như vậy thì lớp tráng stencil sẽ đứt bể không thể
in được.
* Tìm cách điều
chỉnh góc độ, sức ép và tốc độ của squeezees để
lớp discharge base trải đều trên mặt vải và không cho thấm sâu
xuyên tới mặt bàn in gọi là printing palette để tránh
nước trong discharge base làm hư hại nhanh chóng lớp giấy dán trên mặt
bàn in.
* Điều chỉnh nhiệt độ và thời gian của bộ phận sấy sơ bộ gọi là flash cure unit làm thế nào khì sờ ngón tay trỏ vào lớp discharge base không cảm thấy dính tay. Làm như vậy để tránh discharge base còn ước dính vào các khung in kế tiếp.Tuỳ sản phẩm , thời gian nầy khoảng 1 giây nhưng thời gian cần cho phản ứng discharge xảy ra đế bóc màu dưới flash cure là 30 giây (seconds).
* Khi thấy lớp discharge base trải không
đều thì lấy giấy nhúng nước lau sạch mặt đáy của vải khung.
* Sau khi lớp discharge base vừa đủ khô
, chúng ta tiếp tục in những màu kế tiếp như thường lệ.
Sau đó vải vừa in xong phải cho ngay
vào lò sấy đã được điều chỉnh tốc độ của băng tải thế nào để cho
vải phải ở trong đó tối thiểu 90 giây
gọi là minimum dwell time.
* Mùi bốc ra từ sản phâm gây khó chịu
nhức đầu nên chỗ in phải thóang và lò sấy phải được tthoát khí theo
tiêu chuẩn qui định. Những hóa chất bốc ra từ discharge base gồm
có CO,CO2,Sulfur dioxide,Zinc oxide
* Tránh thổi gió vào khung in làm mực
khô nhanh trên khung.
* Sả̃n phẩm in xong cần phải được giặt sạch
hóa chất thặng dư mới đem xử dụng.