Nhằm mục đích giúp thế hệ trẻ có một
khái niệm ngắn gọn và căn bản về nghề in bông vải sợi,tài lịêu nầy đã được sọan ra qua kinh nghiệm làm việc trong nhiều năm tại California-USA.
Ngành in bông trên vải bằng khung có hai khâu chính . Khâu vẽ hình và làm phim dương bản gọi là Graphics Design-Art Work
và khâu Kỹ Thuật Sãn Xuất goị là Production Techniques.
Khâu thứ nhứt : Mời tham khảo http://www.vectorquick.com của một bạn đồng nghiệp.
* VectorQuick là cơ
sở chuyên môn vẽ lại các hình ở
dạng jpegs, gifs, and pngs thành vector formats tức là dương bản. Đem đặt dương
bản trên khung in có trán chất emulsion rồi chuyển hình từ dương bản vào
khung in bằng cách dùng ánh sáng UV.
* Artwork được cơ sở VectorQuick ,bạn thân của người viết bài nầy, sẽ thực xong trong
vòng ít hơn 24 hours.
Khâu thứ hai : Được tóm gọn trong các logos nầy và kế tiếp
Kích thước khung lớn hay nhỏ và cần phải thực hiện đủ bao nhiêu khung hoàn toan tuỳ thuộc vào số phim dương bản (positive films) hoặc hình vẽ muốn in ra.
Khung sau khi làm xong cần để khô hoặc phơi ngoài nắng trong một thời gian để tăng độ bền bĩ cho lớp keo emlusion không bị đứt hay bể quá nhanh do sự ma sát (friction) trong khi in.Đây là một chi tiết quan trọng cần lưu ý nhưng có nhiều cơ xưởng tại Nam California bỏ quên theo kinh nghiệm của người viết bài nầy.
Trước khi bước qua công đọan nầy cần phải có sẵn sàn những dụng cụ và vật liệu như sau.
1-Máy in bằng tay hay máy chạy tự động .
2- Máy sấy khô goị la dryer được điều chỉnh đúng theo nhiệt độ cần phải có.
3-Mực in là loại mực gì : plastisol ink,water base ink,discharge ink và cần bao nhiêu màu khác nhau cùng với số lượng đủ để hòan tất công việc.
4-Sản phẫm in ra là loại vải gì cotton,nylon,polyester,acrylic,len,lua tơ tằm hoặc pha trộn đủ thứ.
5-Tuỳ theo kích thước khung in và bàn vẽ, bàn in gọi là palette được chọn phải có kích thước tương ứng
Giai đoạn phục hồi khung đã in xong-Reclaiming screens phase.
REMOVING PLASTIC OR PAPER TAPES . Soak screens with water for a while as shown the picture,then pull out tapes slowly
REMOVING INKS . Brush ink remover over the both sides of screens and then wash them out with cold water
REMOVING STENCIL AND HAZE. Spray stencil remover on both sides of screen.Depending on the stencil hardness,after 2-5 minutes wash stencil out by strong water pressure.If stubborn hazes show up on screen ,brush alkaline haze remover on them then blow them out by pressure water.
DEGREASING SCREEN . Brush degreaser detergent on both sides of screen then blow them out with spray water.This process is important.If the screen is still dirty,the coated stencil won’t adhere firmly to the screen and will break in printing phase .
UPDATE : AUGUST-18-2015
Vi bài nầy được quý bạn mở đọc rất thường xuyên , nên bắt đầu từ hôm nay người viết muốn tiếp tục update để giúp quý bạn có thêm kiến thức áp dụng vào sãn xuất những mặt hàng có phẫm chất tốt tối đa với phương tiện mà quý bạn đã có.
Rất khó tìm trên Websites những kiến thức nầy lấy ra từ kinh nghiệm sãn xuất.Người ta dấu nghề để viết sách bán.
----------------------------------
COATING SCREENS.
Photographic Emulsion + Scoop coater + Coating techniques
* Emulsion là một loai hoá chất ở dạng sền sệt ( paste) cấu tạo bởi chấtgelatin,hoặc cấu tạo bởi chemical polymers nhuộm màu lá cây hay màu đỏ,màu tím tùy ý của nhà sản xuất, trước khi dùng để trán khung vải in bông chúng ta phải trộn thêm với một hoá chất khác hòa tan được trong nước tên là sensitizer ( silver bromide hay silver chloride dùng cho gelatin)
Photographic emulsion = emulsion + sensitizer
Gelatin lấy từ collagen của da heo,da bò hay xương động vật bằng phương pháp thuỷ giải( hydrolyse.)
Photographic Emulsion tan được trong nước khi còn ướt nhưng sau khi phơi khô trong phòng kín nếu gặp ánh sáng trong một thời gian sẽ không còn tan được trong nước nữa.
Ngày nay, hầu hết emulsions dùng trong kỹ nghệ in bông vải sợi cấu tạo bằng chemical polymers ( polyvinyl acetate và polyvinyl alcohol).
Làm thế nào chúng ta có thể chọn được một loại emulsion tốt và giá thấp nhất ? Qua nhiều năm trong nghề, người viết bài nầy đã làm trắc nghiệm xử dụng rất nhiều mẫu của các nhà cung cấp để chọn emulsion phù hợp với hòan cảnh đang có của cơ sở sãn xuất lúc bấy giờ.
Ngày nay, hầu hết emulsions dùng trong kỹ nghệ in bông vải sợi cấu tạo bằng chemical polymers ( polyvinyl acetate và polyvinyl alcohol).
Làm thế nào chúng ta có thể chọn được một loại emulsion tốt và giá thấp nhất ? Qua nhiều năm trong nghề, người viết bài nầy đã làm trắc nghiệm xử dụng rất nhiều mẫu của các nhà cung cấp để chọn emulsion phù hợp với hòan cảnh đang có của cơ sở sãn xuất lúc bấy giờ.
Thông thường khi mua emulsion nhà sản xuất sẽ gửi cho chúng ta một lọ nhỏ màu sậm đựng sensitizer và một hủ bằng plastic có dung tích một gallon đựng emulsionnhuộm màu xanh lá cây hay màu đỏ, màu tím.
Đổ nước cất ( distilled water ) vào gần đầy lọ sensitizer, lắc bằng tay cho tan hết rồi đổ vào hủ emulsion và khuấy trộn cho thật đều. Sau khi trộn xong, phải để emulsion sạch hết bong bóng( bubbles) trong khoảng vài giờ mới bắt đầu xử dụng.
Polyvinyl acetate thì khán nước( water-resistant), còn polyvinyl alcohol thì khán dung môi (solvent-resistant). Nếu emulsion được pha trộn cả hai hóa chất nầy với nhau thì được rất nhiều khách hàng ưa chuộng.
Emulsion nếu chứa ít chất độn (inert filler) thì khi khô sẽ co rút nhiều, tạo ra nhiều pinholes cho nên cần phải pha thêm chất độn trên 35 phần trăm.Nhưng emulsion có nhiều chất độn thì thời gian đốt khung (exposure time) lâu hơn.
Trước năm 1980, người ta dùng hoá chất benzene diazonium salt làm sensitizer nên gọi Diazo emulsions .
Ngày nay có thể thay thế diazo bằng hóa chất Styryl Basolium Quaternary salt nên gọi SBQ-based emulsions.
Styryl Basolium Quaternary còn có tên là Stilbenium quarternized (SBQ).
Sự nối kết hóa học của SBQ với polyvinyl alcohol( PVA)do University of Tokyo Japan đã nghiên cứu thực hiện thành công từ năm 1980 .Sau đó nhiều công ty đem áp dụng thành quả nầy chế tạo emulsions cho công nghiệp in bông vải sợi.
Ngày xưa trước1965, người ta dùng potassium bichromate làm sensitizer.Khi chưa có polymer dùng gelatin làm emulsion được nhuộm màu tuỳ ý để dể tìm pinholes khi trán khung vải.
Vậy nếu chúng ta là sinh viên đang học nghề muốn tự chế lấy photographic emulsion, có thể dựa vào công thức như sau rồi tự mình điều chỉnh lấy tuỳ theo độ tinh khiết của hóa chất.Nếu dùng quá nhiều potassium bichromate,stencil sẽ dòn dể bể nát.
150 grs gelatin + 1400 cc H2O + 145 grs potassium bichromate + red dye
Update August - 21-2015
Muốn có diazonium ion phải chế tạo diazonium salt.
Thí dụ Benzene diazonium chloride
SENSITIZERS DÙNG TRONG EMULSIONS .
Ngày nay trong emulsion tuỳ công thức của nhà sản xuất, có khoảng 50% nước. Phần còn lại là polymer như polyvinyl alcohol (PVA), polyvinyl acetate (PVAc), chất độn, chất khuyếch tán dispersions, plasticizers, wetting agents, defoamers, flow agents, và thuốc nhuộm (màu lá cây, màu đỏ, màu tím, màu cam.)
Ngày xưa khi chưa có polymer, người ta chọn gelatin làm emulsion.
Gelatin lấy từ collagen của da và xương thú vật theo phương pháp thuỷ giải ( hydrolyse).
Ngày nay trong emulsion tuỳ công thức của nhà sản xuất, có khoảng 50% nước. Phần còn lại là polymer như polyvinyl alcohol (PVA), polyvinyl acetate (PVAc), chất độn, chất khuyếch tán dispersions, plasticizers, wetting agents, defoamers, flow agents, và thuốc nhuộm (màu lá cây, màu đỏ, màu tím, màu cam.)
Ngày xưa khi chưa có polymer, người ta chọn gelatin làm emulsion.
Gelatin lấy từ collagen của da và xương thú vật theo phương pháp thuỷ giải ( hydrolyse).
Lớp tráng emulsion trên khung vải sau khi khô gọi là stencil hay film.Chất tạo ra stencil bám dính trên khung vải chính là polymer hay gelatin. Sau khi nước bốc hơi hết những chất chứa trong emulsion kết dính với nhau theo lực vật lý( physical bond) nên stencil vẫn còn tan rã được trong nước.
Nhưng dưới tác kićh của ánh sáng UV, polymer hay gelatin của stencil sẽ cross-link với bichromates làm stencil không còn tan rã trong nước nữa.
Mấu chót làm cho stencil sau khi khô không tan rã trong nước chính là cross-linking process.
Cross-linking chỉ xãy ra trong stencil hay film khi có một hóa chất bị ánh sáng UV tác kích. Gọi hóa chất đó là sensitizer.
Cross-linking chỉ xãy ra trong stencil hay film khi có một hóa chất bị ánh sáng UV tác kích. Gọi hóa chất đó là sensitizer.
Ngày xa xưa người ta lấy bichromate potassium làm sensitizer. Sensitizer được chọn trong nhóm muối kim loại (metal salt group) gồm có aluminum, chromium, zinc, titanium, zirconium, tin, and iron.
Chromium compound oxyt hóa PVA, làm cross-link với PVA.Nhưng hexavalent chromium (CrVI)gây ung thư nên người ta đã phải nghiên cứu tìm organic compounds để thay thế.
Organic compounds hiện đang xử dụng là benzene diazonium salt và Styryl Basolium Quaternary thay thế bichromates nên phẩm chất của emulsions ngày nay có ưu điểm và xử dụng tiện lợi.
Organic compounds hiện đang xử dụng là benzene diazonium salt và Styryl Basolium Quaternary thay thế bichromates nên phẩm chất của emulsions ngày nay có ưu điểm và xử dụng tiện lợi.
Ngoài ra chúng ta cũng không muốn xử dụng bichromate nữa vì độc hại mặc dầu thời gian exposure time của bichromate stencil ngắn hớn diazo stencil.
I - Benzene diazonium salt.
Khi nói tới diazo thì nên hiểu ngay đó là Benzene Diazonium Salt.
Diazo nghĩa là 2 nitrogen atoms.Còn ium nghĩa là positive charge ion.
Benzene Diazonium Salt có 2 nitrogen atoms ở dạng ion, positive charge,có 2 unshared electrons
Chinh diazonium ion nầy làm cross-link với nhóm HO của polyvinyl alcohol.Muốn có diazonium ion phải chế tạo diazonium salt.
Thí dụ Benzene diazonium chloride
Đây là một loại muối rất quan trọng dùng làm nền tản để chế tạo rất nhiều thuốc nhuộm thuộc nhóm azo dyes và chế tạo photosentizers .
Muốn có loại muối nầy chúng ta phải thực hiện phản ứng gọi là diazotization như sau.
Diazotization do Peter Griess tìm ra (discovered)vào năm 1858.
Diazotization do Peter Griess tìm ra (discovered)vào năm 1858.
Công thức chế tạo benzene diazonium chloride tại phòng thí nghiệm .
Pha trộn trong một beaker đặt trong chậu nước đá ở nhiệt độ O*C hổn hợp A gồm có :
9.1 cc aniline + 25 cc HCl conc + 25 cc H2O
Pha trộn trong một beaker khác dung dịch B gồm có :
7.5 gr NaNO2 + 25 cc H2O
Rót B vào A ở nhiệt độ lạnh dưới 5*C.Nhớ vừa rót vừa khuấy đều.
Sau 1 giờ đồng hồ, xử dụng ngay diazonium ion .
HX là acid chúng ta muốn xử dụng.Thí dụ acid HCl
Nhỏ từ từ dung dịch sodium nitrite NaNO2 vào hổn hợp phenylamine tức là aniline C6H5NH2 trộn chung với concentrate acid HCL ở nhiệt độ < 5*C, chúng ta thấy xuất hiện một organic compound có dạng tinh thể không màu ( colorless crystalline solid ) tên là benzene diazonium chloride [C6H5N2] Cl.
NaNO2 + HCl --à HNO2 + NaCl
HNO2 + C6H5NH2 + H+ ---à C6H5N2+ Cl - +2H2O
Công thức chung cho diazonium salt là R-N2+ X-
R là phần còn lại của organic compound bị mất hydrogen atom.
X là inorganic anion hay organic ion . Vì là muối nên cần có X anion để cân bằng.
Dùng acid HCl, acid H2SO4, acid H3PO4. acid nitric để tạo benzene diazonium salt.
Tuỳ theo acid xử dụng, chúng ta có những loại muối có tên khác nhau.
Nếu dùng acid sulphuric H2SO4, tên muối là benzene diazonium sulfate :
C6H5N2 + H2SO4 -----> [C6H5NH3] + + [HSO4] -
Nếu dùng acid nitric, tên muối là benzene diazonium nitrate C6H5N(O3):N có hình kim dài .
Với primary amine như aniline, chúng ta tạo được dể dàng diazonium ion.
Nhưng với secondary amine như diphenylamine, thì không tạo được diazonium ion mà chỉ xuất hiện N- nitrosoamine theo phản ứng sau đây.
Diazonium ion trong các loại muối nêu trên không
bền (unstable), phải dùng ngay khi vừa xuất hiện ở nhiệt độ dưới 5*C .Cho nên nếu muốn kèm giử nó để làm sensitizer
thì dùng p-diphenylamine diazonium
salt trộn chung với zinc chloride.
Zinc chloride sẽ ổn định (stabilise) phần nào diazonium salt nhờ double salt xuất
hiện.
Nhưng diazonium salts vẫn còn khuyết điểm là dể hút ẩm, dể bị hư hỏng bởi nhiệt độ, phải tồn trử trong kho nhiệt độ lạnh, phải dùng bao bì bằng lọai nguyện liệu dày và tối sậm, tồn trử lâu không được,gây tốn kém cho nên đã xuất hiện nhiều nghiên cứu tìm cách cải tiến với bằng sáng chế riêng cho từng xí nghiệp chuyên môn sản xuất diazonium salts.
Một qui trình có tên là “Condensation products of p-diazodiphenylamine-formaldehyde.”đã được khám phá từ lâu (has long been claimed) rồi từ đó làm chỗ để áp dụng nghiên cứu lấy bằng sáng chế (patents) riêng trong nhiều điều kiện khác nhau cho mỗi xí nghiệp hiện nay.
Condensation reaction là phản ứng kết hợp 2 phân tử giống nhau hay khác nhau có sự hiện diện chất xúc tác (catalyst) trong một môi trường nào đó sẽ cho ra một hóa chất mới và sẽ loại bỏ H2O và vài phân tử đơn giản khác không cần thiết.
Some examples of the “Condensation products of p-diazodiphenylamine-formaldehyde.”
Paraformaldehyde là chất polymerization của formaldehyde CH2O, tinh thể màu trắng, nóng chảy ở nhiệt độ 120*C, có công thức hóa học OH(CH2O)nH, n=8 -10 units.
p-aminodiphenylamine tức là 4-aminodiphenylamine : grey brown flakes, nóng chảy 73-75 *C,ít tan trong nước.
p-diphenylamine diazonium sulfate : màu sắc và hình thể “ yellow green solid”, mùi khó chiụ, tan trong nước, dể bị tác kích bởi ánh sáng( sensitive to light).Trọng khối phân tử : 319.295
Structure of p-diphenylamine diazonium sulfate |
Patent US 3163633- Acid bromide of the condensation product
1- Add while stirring 23 parts of diphenylamine-diazonium sulfate for 1 hr to 50 parts H2SO4(78% by weight).(Keep stirring while adding).
Then add while stirring 2.4 parts by weight of paraformaldehyde for 4 hrs.
2- Then the mixture is stirred for 2 hrs at 40*C temperature.
3- Let the mixture to stand at room temperature for 12 hrs.
4- Dissolve 50 parts by weight of the mixture in 75 parts by volume of water.
Then add barium bromide to this solution until no precipitation of barium sulfate occurs.
5- The mixture is centrifuged and then in vacuum under 70*C .
6- We get 8.8 parts by weight of “Acid bromide of the condensation product “
-------------------------------------------------
-------------------------------------------------
Barium bromide (BaBr2) : white crystals, very soluble in water.
Barium sulfate( BaSO4) : white crystalline solid, insoluble in water.
UPDATE August-22-2015.
Barium sulfate( BaSO4) : white crystalline solid, insoluble in water.
UPDATE August-22-2015.
II - Styryl Basolium Quaternary còn có tên là Styrylpyridinium(SBQ).
Năm 1980 Đại Học Tokyo Japan nghiên cứu thành công việc kết hợp SBQ với polyvinyl alcohol để chế tạo thuốc.
Trong hơn 38 năm, Công ty Murakami Company Ltd dựa vào thành quả đó đã tiếp tục nghiên cứu và phát triển sản xuất photosensitizer dùng cho ngành in khung vải sợi.
Năm 1984 Công Ty nhận được giải thưởng Hiragawa Award về công trình phát triển chế tạo chất “Photopolymer SBQ-PVA Emulsion”
Styryl Basolium Quaternary kết hợp với polyvinyl alcohol thành phân tử gọi là photopolymer SBQ-PVA.
Phân tử nầy rất dể bị tác kích bởi ánh sáng ultraviolet, nếu trộn với nước và một số hóa chất độn khác sẽ trở thành photopolymer SBQ-PVA emulsion.
Khi stencil tráng bằng photopolymer SBQ-PVA emulsion nầy khô hết nước nếu gặp ánh sáng UV, các nối đôi của Styryl Basolium Quaternary bị bẻ gảy để tạo ra cross-link như hình vẽ và stencil đã khô trở thành chất không tan trong nước.
Coss-linking between photopolymer SBQ-PVA inside the dry stencil coated on screens attacked by UV. |
So sánh diazo emulsion với SBQ emulsion.
1- Diazo Emulsion : chất sensitizer là benzene diazonium salt for light reactivity
2- SBQ emulsion (còn gọi photopolymer emulsion) : chất sensitizer là Styryl Basolium Quaternary for light reactivity trộn sẳn trong đó bởi xưởng chế tạo.
Nghĩa là chất căn bản của loại emulsion nầy là những phân tử polyvinyl-SBQ được tổng hợp tại một khâu riêng biệt rồi được chuyển tới khâu pha trộn với nước và một số hóa chất khác nữa thành emulsion đem bán ngoài thị trường.
Murakami Copmpany Ltd có những xưởng chế tạo riêng biệt như sau.
· Emulsion manufacturing plant .
· SBQ-PVA raw material manufacturing plant.
· SBQ-PVA raw material manufacturing plant.
Ưu điểm và khuyết của diazo emulsions :
- Ch̉i trộn sensitizer vào emulsion khi cần xử dụng .
- Gía rẻ.
- Lâu bị phản ứng với ánh sáng. Cho nên khi đốt khung ( exposure to light source) phải dùng đèn ánh sáng phát UV thật mạnh thì mới khỏỉ mất nhiều thì giờ.
- Được chế tạo ở dạng khán nước hoặc khán dung môi (water-resistant or solvent-resistant). Nên phải mua riêng cho 2 loại khác nhau.
- Sau khi trộn với sensitizer, chúng ta có thể tồn trử diazo emulsion lâu tới 3 tháng trong phòng tối có nhiệt độ bình thường.
- Nếu dùng tráng những khung có mesh count 40-86 để in puff base, in glitters, in sparkles sẽ phải đốt khung rất lâu nên bất tịên,mất thì giờ và tốn phí tiền địện.
- Reclaiming rất dể.
Ưu điểm và khuyết điểm của Photopolymers or SBQ emulsions.
- Sensitizer được nhà sản xuất trộn sẳn với emulsion cho nên có tên là one-pot emulsions
- Rất dể bị phản ứng với ánh sáng nên thời gian đốt khung rất nhanh (short exposure times.)
- Có thể tồn trử lâu đến một năm.Lúc xử dụng không cần khuấy nên không có bong bóng.Stencil có ít pinholes.
- Rất thích hợp cho những mặt hàng in theo halftone vì stencil mỏng.
- Reclaiming phải thực hiện ngay sau khi khung in xong nếu không sẽ không thể decoating hay removing stencil . Nói chung vấn đề reclaiming gặp trở ngại.
- Giá mắc hơn diazo emulsion.
Update August-25-2015
Scoop coater.
Chọn scoop coater có chiều dàì thích hợp với bề rộng của khung thường xử dụng.
Khung có kích thước 20x24 inches thì dùng coater dài 16 inches .
Coater dài10 inches chỉ trán được 9 inches rộng .
Mỗi coater có 2 lưỡi trán (coating edges or coating lips) có đường kính khác nhau.
Muốn có lớp trán ( stencil ) dày thì dùng lưỡi có đường kính lớn.
* Coating techniques.
Drying wet coated screens and storage.
Nếu ẩm độ quá cao, H2O trong không khí sẽ ngăn cách không cho polymer tiếp xúc với sensitizer làm cho stencil sẽ có rất nhiều pinholes.
Sau khi lớp trán đầu tiên khô, theo kinh nghiệm của người viết bài nầy nên trán thêm một lớp nữa ở mặt ngoài khung rồi phơi mặt đó nằm trên , mặt trong khung nằm dưới (squeezee side down) để ngăn ngừa pinholes.Xem hình số 2.
LAYING OUT ART WORK
Picture number 6. Laying out the positive of art work.
EXPOSURE TO UV LIGHT
Picture number 7
EXPOSING OR BURNING COATED SCREENS TO A SOURCE OF LIGHT
Nếu muốn tự mình chế tạo thì làm như sau.
Máy phát nguồn ánh sáng mạnh phải mua.
UPDATE Agust- 29-2015.
TỰ LÀM KHUNG IN - CREATING YOUR OWN SCREENS.
Dán vải lưới vào một đầu khung bằng keo epoxy rồi gá đầu đó vào một vật có chiều cao tự chọn để nâng khung.
Keó vải lưới cho thật căng rồi chận lưới cho thật chắc vào trong một rảnh sâu bằng một cái nệp sắt
Hạ từ từ khung xuống mặt bàn. Lấy vật nặng đặt trên thành khung cho nằm sát với mặt bàn.
Dùng tension meter đo độ căng trước khi bôi keo epoxy. Nếu thấy độ căng còn yếu thì lấy nệp sắt ra rồi dựng khung cao thêm.
Trải keo epoxy lên thành khung có lưới và xịt activator.
Tiếp tục làm như vậy cho hai thành khung còn lại.
Nếu muốn khung không bị tróc keo khi xài lâu thì cần kẹp thêm trên 4 thành khung nệp vải nylon màu trắng có đóng staples. Xem hình chụp khung đã làm xong.
Chọn scoop coater có chiều dàì thích hợp với bề rộng của khung thường xử dụng.
Khung có kích thước 20x24 inches thì dùng coater dài 16 inches .
Coater dài10 inches chỉ trán được 9 inches rộng .
Mỗi coater có 2 lưỡi trán (coating edges or coating lips) có đường kính khác nhau.
Muốn có lớp trán ( stencil ) dày thì dùng lưỡi có đường kính lớn.
* Coating techniques.
Đối với khâu nầy, người mới học việc cảm thấy rất lúng túng nhưng nếu có người hướng dẫn đứng bên cạnh thì sẽ thấy rất dể sau khi thực tập vài lần.
- Rót emulsion vào scoop coater ở mức 1/2-2/3.
- Tùy theo khung nhỏ hay lớn,chúng ta chọn một cái giá (stand or support) hay cái bàn vửng chắc có độ cao vừa tầm cho mình.
-Tay trái cầm thành khung. Dựng mặt trong của khung (phần chứa mực) nằm dưới một góc nghiêng trên cái giá hay cái bàn.
- Tay phải cầm chính giữa scoop coater.Cố gắng giử emulsion trong scoop coater nằm ngang và tiếp xúc với lưới khung.
-Tay trái cầm thành khung. Dựng mặt trong của khung (phần chứa mực) nằm dưới một góc nghiêng trên cái giá hay cái bàn.
- Tay phải cầm chính giữa scoop coater.Cố gắng giử emulsion trong scoop coater nằm ngang và tiếp xúc với lưới khung.
- Kéo scoop coater lên tới đỉnh khung với tốc độ đều, không do dự và chậm.Khi gần tới đỉnh khung bức nhanh scoop coater ra khỏi khung.
- Chú ý khi bức scoop coater ra khỏi khung phải nghiêng coater ra ngoài để emulsion chảy trở lại scoop coater.( emulsion rolls back to the scoop coater)
- Tiếp tục làm giống như trên cho phần còn lại của khung.
Hình số 1 bên trái cho thấy cách phơi khung sau khi trán lớp đầu tiên. Hình số 2 bên phải cho thấy cách phơi khung sau khi trán lớp thứ hai. |
Sau khi trán xong 2 mặt khung, chúng ta phơi khung trên giá (rack) như hình chụp.
Lưu ý đặt mặt trong của khung nằm trên; tức là mặt sẽ chứa squeezee ( squeezee side up) để cho emulsion chảy xuống mặt dưới làm cho mặt dưới có lớp trán dày thêm, mạnh thêm và bóng láng thêm.(This technique will give the print side a smooth surface, a heavier and stronger coat ) và cũng rất lý tưởng khi chúng ta đốt khung (ideal for screen exposure to UV light).
Phòng phơi khung phải có ẩm độ dưới 50 %, nhiệt độ bình thường, không có buị bặm, thoáng khi để hơi nước của lớp tráng thoát ra mau hơn.Nếu ẩm độ quá cao, H2O trong không khí sẽ ngăn cách không cho polymer tiếp xúc với sensitizer làm cho stencil sẽ có rất nhiều pinholes.
Sau khi lớp trán đầu tiên khô, theo kinh nghiệm của người viết bài nầy nên trán thêm một lớp nữa ở mặt ngoài khung rồi phơi mặt đó nằm trên , mặt trong khung nằm dưới (squeezee side down) để ngăn ngừa pinholes.Xem hình số 2.
LAYING OUT ART WORK
Picture number 6. Laying out the positive of art work.
The top of the table must be a piece of glass with grid.
Inside the table there is a electric yellow light lamp.
Inside the table there is a electric yellow light lamp.
The screen must be parallel with the table.
The position of the top registration mark of the art must be inside thepallet of the printing machine.This means the registration mark must be within the squeezee running distance.
EXPOSURE TO UV LIGHT
EXPOSING OR BURNING COATED SCREENS TO A SOURCE OF LIGHT
CÁCH ĐỐT KHUNG ĐÃ TRÁNG EMULSION BẰNG ÁNH SÁNG.
Trong nghề nghiệp người ta thường nói burning screen khi muốn đem khung đã tráng sensitized-emulsion có kèm dương bản để phơi ra ánh sáng.
Có hai loại ánh sáng.Ánh sáng mặt trời và ánh sáng nhân tạo.Nếu dùng ánh sáng mặt trời thì khó kiểm soát.
Do đó phải xử dụng ánh sáng nhân tạo.do mình tự thực hiện hoặc mua máy của những nhà chế tạo tuỳ theo hòan cảnh địa phương nơi sinh sống.
Nếu muốn tự mình chế tạo thì làm như sau.
Đóng một hộp gổ có kích thước trung bình 29 x 51 inches.Trong hộp có gắn những bóng đèn fluorescent. Dưới bóng đèn là miếng nhóm chiếu sáng gọi là reflector sheet để dội ánh sáng lên phía trên.Nếu không có miếng nhôm thì dùng giấy sơn màu trắng cũng được.
Miệng nắp hộp là một tấm kiếng trong sạch,không có tỳ vết.Trên tấm kiếng là nắp đây kín hộp làm bằng một tấm cao su gọi là rubber blanket ăn thông với một máy hút không khí để tấm cao su có thể ép sát vào tấm kiếng và làm cho dương bản được ép sát và lưới khung .
Nắp đậy hộp phải có khóa để kẹp cứng nắp vào hộp khi mở đèn phát ánh sáng đốt khung lụa có kèm dương bản.
Máy phát nguồn ánh sáng mạnh phải mua.
Máy gồm vó 2 phần. Một phần phát ánh sáng từ bóng đèn và nối với đồng hồ đếm seconds.Thành phần thứ hai là một khung sắt nặng gồm có một tấm kiếng ,một rubber blanket gắn trên nắp đậy ăn thong với máy hút không khí đặt dưới đất bên cạnh.
Làm thế nào để chọn một máy phát ánh sáng tốt ? Máy phải có đèn phát sáng mạnh goị là hight intensity lamp.Tốt nhất nên chọn loại đèn gọi là metal-halide lamp 5000 watt.Nếu dùng loại đèn nầy thì hời gian đốt khung rất nhanh hơn dùng các loại đèn khác như pulse xenon,carbon-arc,mercury vapor lamp.
DEVELOPING SCREENS
Picture number 8
Picture number 8
Spray gently water on the both sides of screens and let them stand about ½ minute.
Then use fine jet of warm water to wash out everything on the both sides of screens until there is no more wet emulsion left on screens.
Hand screens against the light to check whether the washout areas are open as required or not.
BLOCKING OUT PINHOLES
Let screens drip for one or two minutes and dry them between newsprint papers.
Use the compress air to blow out any wet areas of the screens.
UPDATE Agust- 29-2015.
TỰ LÀM KHUNG IN - CREATING YOUR OWN SCREENS.
Lưới làm khung có thể là lụa tơ tằm, nylon, polyester, polyester mạ kim loại, thép không rĩ, đồng phôt pho gọi là phosphobronze.
Vào thời kỳ mới phát minh cách in vải sợi bằng khung,người ta dùng lụa tơ tằm làm lưới khung..Do đó mới có cái tên in khung luạ goị là silk screen printing.
Ngày nay lụa tơ tằm được thay bằng lưới nylon hoặc polyester lâu mòn, lâu đứt, đàn hồi tốt hơn và rẽ tiền hơn lụa tơ tằm.
Lướị dệt bằng sơi liên tục không gían đoạn được gọi là monofilament hoặc sợi do nhìều xơ nhỏ se kết lại gọi là multifilament.
Loại lưới dệt bằng multifilament có khuyết điểm mực in kẹt lại trong xơ khó chùi sạch, mau mòn,hình in ra thô không đẹp.Chỉ nên dùng lại lưới nầy khi chung ta muốn in lớp mực dày.
1 - Cách nhận diện và chọn lưới.
Trên mặt hàng lưới dệt bằng monofilament, nhà sản xuất phải in 3 chi tiết chính:tên của sợi lưới là gì và hai con số kẹp với nhau.Thí dụ polyester 173/55 .Qui ước nầy cho người xữ dụng biết mỗi inch có 173 lổ và độ lớn của sợi dệt lưới là 55 denier.Con số đầu nếu càng lớn thì lổ càng nhỏ.Thí dụ lưới 230 có lổ nhỏ hơn lưới 110; lưới 305 có lổ nhỏ hơn lưới 230.
Dùng chữ lổ (holes) thay cho chữ sợi (threads)để dễ nhớ hơn nếu không chuyên môn về ngành dệt vải sợi.
Con số thứ nhì càng lớn thì sơi dệt có đường kính lớn theo.Sợi 75 denier to hơn sợi 55 denier.
Lưới màu trắng 180, màu cam 400, màu vàng 230 |
Trên mặt hàng lưới dệt bằng xơ multifilament thì ký hiệu được viết theo cách khác như sau.Thí dụ lưới 10X, 10XX, 10XXX. Càng nhiều chữ X thì sợi càng to. Lưới 6XX có 74 lổ /in, lưới 16XX có157 lổ /in, lưới 21XX có 300 lổ /in.
Lưới 10XX tương đương với lưới polyester 110-125.
Lưới bằng kim loại.Loại lưới mạ kim loại dệt bằng sợi polyester gọi là metallized polyester có tráng mặt ngoài một lớp kim loại không rĩ có độ chà mòn rất cao.Muốn xử dụng loại lưới nầy cần phải làm đúng theo hướng dẫn của nhà sản xuất
Còn loại lưới dệt bằng sơị kim loại thì dùng để in trên sành sứ và mạch địên tử.Lưới có ưu điểm mực xuyên qua đầy đủ nên nét in rõ đẹp.Khi in xong muốn tái xử dụng phải đốt nhanh qua ngọn lữa của khí đốt.
* Tuỳ theo hình vẽ hay hình chụp bằng máy ảnh, chúng ta chọn lưới có lổ thích hợp.Nếu không chọn tốt khi in bức hình sẽ có hiện tượng gọi là Moiré nghĩa là có những đường ngắn nằm nghiêng.
* Nếu bức hình cần in mực plastisol glitters thì chọn lưới 25-40
* Nếu bức hình cần in mực plastisol puff, plastisol metallics thì chọn lưới 70-86
* Nếu bức hình cần in màu fluorescent thì chọn lưới 109 , 110 , 175 hoặc 180 vì mực fluorescent có hạt lớn hơn loại mực thường.
* Những búc hình in bằng mực thường không có gì đặc biệt thì chọn lưới 158,160, 175, 180.
* Đối với hình chụp bằng máy ảnh hay hình có haftone cần phải in bằng mực haftone hay mực four colors prosess thì đặt dương bản lên lưới rồi xoay dương bản có đèn rọi phía dưới kiểm soát nếu không thấy có Moiré thì chọn lưới đó.
Haftone là tập hợp những chấm có nhiều cở nhỏ và lớn có màu đậm hoặc lợt gọi là dotcấu tạo nên bức hình.Vùng có chấm lớn thì màu đậm vùng có chấm nhỏ thì màu lợt. Số lượng chấm được đo bằng lpi nghĩa là lines per inch..Nhìn bằng mắt trần chỗ nào có 85 lpi thì thấy chổ đó liên tục không có dot.Theo kinh nghiệm của người viết tài liệu nầy nếu thấy hình có từ 10-90% haftone thì chọn lưới có lổ 230, 305
2 – Chọn vật liệu làm khung và cách căng lưới.
* Vật liệu làm khung là gổ hoặc kim loại, hợp kim mhôm.
Khung làm bằng gổ có ưu điểm dễ thực hiện,giá rẽ và rất phổ thông nhưng có khuyết điểm bị mo cong.Sau vài lần in lưới gỉam sức căng làm cho sự lấy dấu goị làregistration của các khung in chồng lên khung đầu tiên khó khăn, mất thì giờ và không chính xác.
Chỉ nên xử dụng loại khung làm bằng gổ khi in 2-3 màu và khi tài chánh còn quá eo hẹp.
Để chống sự mo cong và ngấm nước hoặc ngấm dầu , khung gổ phải được nhúng trong vẹc ni .Nếu tự mình ráp khung thì bốn góc phải trét keo epoxy và đóng đinh 3 cái đinh để khung vững chắc.
Gổ làm khung tùy thuộc nơi sinh sống của chủ xí nghiệp.Tại USA người ta dùng gổ white pine,gổ spruce,gổ mahogany.
Nếu chọn gổ tốt, và làm đúng như trên, khung gổ theo kinh nghiệm của người viết bài nầy đã từng tự làm lấy trên 300 khung gổ gồm nhiều cở rất lớn, lớn, trung bình, nhỏ và thật nhỏ đã xài từ 8-10 năm vẫn không mo cong hay mục rã.Trong thời gian nầy chỉ thay đổi lưới khung mà thôi.
Ở những quốc gia còn nghèo thiếu nhiều phương tiện nên xử dụng khung làm bằng gổ.
* Cách căng lưới không có máy căng ( Without Stretching Apparatus).
- Khung làm bằng gổ. Dụng cụ cần phải có : đồng hồ đo sức căng gọi làtensiometer,máy tạo hơi sép gọi la air compressor,dụng cụ đóng staples, keo epoxy, một cuộn nệp vải polyester hay nylon rộng khoãng 5/8 in,đinh staples,bàn có một rảnh dài và rộng khõang 5/16 in, một nệp sắt tráng kẽm dài và dày khoảng 4/16 in.Dán vải lưới vào một đầu khung bằng keo epoxy rồi gá đầu đó vào một vật có chiều cao tự chọn để nâng khung.
Keó vải lưới cho thật căng rồi chận lưới cho thật chắc vào trong một rảnh sâu bằng một cái nệp sắt
Hạ từ từ khung xuống mặt bàn. Lấy vật nặng đặt trên thành khung cho nằm sát với mặt bàn.
Dùng tension meter đo độ căng trước khi bôi keo epoxy. Nếu thấy độ căng còn yếu thì lấy nệp sắt ra rồi dựng khung cao thêm.
Tension meter |
Trải keo epoxy lên thành khung có lưới và xịt activator.
Tiếp tục làm như vậy cho hai thành khung còn lại.
Nếu muốn khung không bị tróc keo khi xài lâu thì cần kẹp thêm trên 4 thành khung nệp vải nylon màu trắng có đóng staples. Xem hình chụp khung đã làm xong.
Đây là hình chụp khung gỗ căng theo phương pháp mô tả trên. CÒN TIẾP |