Khi Tây phương phát triển khoa học kỷ thuật rồi thám hiểm
tìm ra Châu Mỹ , và đánh chiếm các nước khác dung làm thuộc địa tại các Châu Á, Châu Phi ,Châu Úc và vùng Nam Mỹ thì Đông là Đông,
Tây là Tây vì do sự khác biệt về kinh tế và văn hóa nên mới nẩy sinh tư tưởng
như trên.
Thực tế có sự khác biệt từ vùng địa lý này sang vùng địa
lý kia đúng như câu nói bất hũ của Bliase Pascal(1623-1662) “ Truth
on this side of the Pyrenees ,error on the other side” . Nhưng các nhà khảo
cổ và nhân chủng học , các nhà khoa học về di truyền học và đã chứng minh tổ
tiên của nhân loại đã bắt đầu rời Châu Phi du hành khắp quả địa cầu giữa
60,000 - 70,000 năm trước.
Khi khí hậu bắt đầu thuận lợi sau 70,000 năm trước ,dân
số bắt đầu tăng ,nên một vài nhóm thám hiểm ra khỏi Châu Phi. Những người
đầu tiên đả định cư miền Á-Âu qua dãy “bab-al-Mandab” phân chia ngày nay giữa
Yemen với Djibouti . Họ lan nhanh đến Ấn Độ ,và đến tận Đông Nam Á và rồi Úc
Châu khoãng 50,000 năm trước.
Sau đó cũng thời
gian ấy , một nhóm thứ hai sang Trung Đông và miền Trung Nam Á Châu(Southern Central Asia) và từ đó qua miền Ví Độ Bắc của Á Châu ( Northern Latitudes
of Asia) qua Âu Châu và xa hơn nữa .
Khoãng 20,000 năm trước ,một nhóm nhỏ của người Á Châu khi đi
săn bắn bị cơn bảo lớn nên đi lạc vào Miền Đông Á băng giá ( East Asian Arctic).
Khoãng 15,000 năm trước , họ xâm nhập vào Nam Cực Giá Băng (The land South of
The Ice) và khoãng 1,000 năm trước họ đi xuống miền Nam Mỹ.
Miguel Villar đả viết trong Blog của
Geographic bài nhan đề”The Human Family Tree Grows New Brach on Arbor and DNA
Day” ngày 25 April 2014 cho thấy nhân loại có cùng Tổ
Tiên ở Châu Phi hơn 100,000 năm trước như dưới đây “:
“What is the 2014 Y-Tree? The new Y-Tree is a chart of human relatedness showing
how all men’s Y-chromosomes stem from an ancient ancestor in Africa more than
100,000 years ago. Since that shared common ancestor, his descendents have
journeyed around the world and in the process accumulated mutations in their
DNA that make them and their Y-chromosome relatives unique. Each mutation is a
genetic event that occurred at a particular time and place in the ancestral
journey. Today, all men carry in their Y-chromosomes a set of DNA mutations
that charts that series of events. The tree is therefore the global genetic map
of all these mutational events, showing how we are all related.”
Những khảo sát đầy thú vị
Trên đài TVO tại Toronto có chiếu phim tài liệuvề
những khảo sát để chứng minh cho cuộc hành trình của nhân loại .
-Tại vùng Bắc cực
ghe xuồng chạy giửa những tản băng , người dân đã đóng khung ghe bằng gổ nhưng bọc mạng ghe
bằng nguyên miếng da thú làm cho ghe chịu được nhiệt độ âm .
-các nhà nghiên cứu
khảo sát các ghe buồm của những sắc dân để tìm hiểu làm sao họ vượt được Ấn Độ
dương và Thái Bình Dương ,thì trung tâm nghiên cứu tại Úc Châu đã thử nghiệm trong
“wind tunnel” thì thấy các ghe của họ đều chịu được sức gió lớn của bảo táp
trên biển.
-một sắc dân sống
trong các vùng rừng nhiệt đới ,đầy rắn rết ,cá sấu và thú dữ .Họ đã có phong tục cổ
truyền ,cắt mình mẫy những vết cắt trông như cá sấu ,họ bơi lội và khoẽ không
thua cá sấu .
Nhập gia thì tùy tục
Người Mỹ đen sau
khi đến Bắc Mỹ do nạn buôn nô lệ từ Châu Phi , nhưng sau 300 năm ,nay trông họ khác nhiều về văn hóa ,và cả hình dáng . Người Châu Phi ở
Nam Phi cũng khác với các người khác ở cùng một Châu.
Người Việt chúng
ta ,sau năm 1975 đã có mặt khắp nơi trên thế giới .Nhiều
nhất là tại Hoa Kỳ ,Canada, Pháp , Úc và các nước khác.Người xưa có câu “
đi xứ Lào ,ăn mắm hóe” để nói lên sự hội nhập vào nền văn hóa mới để dễ dàng
cho cuộc sống . Dân mình có vẽ thành công do hội nhập nhanh vào nền văn hóa mới
nơi đất tạm dung và đã sớm ổn định . Có những thành công đầy khích
lệ . 40 năm sau ngày Việt Nam Cộng Hòa tan
hàng , một số người tỵ nạn trên đất Mỹ con
cái lớn lên và đã gia nhập quân đội và đã lập nhiều chiến
công và đã mang
quân hàm cấp tá vả cả tướng nữa . Một số là những nhà khoa học gia, chính
trị gia ....Đa số giới trẻ không nói rành tiếng Việt , biết rất ít về lịch sử
Việt Nam và nhất là cuộc chiến thảm khốc của cuối thế kỷ 20. Giới trẻ đã lấy chồng hay
lấy vợ với những người thuộc sắc dân khác .
Vài nét về văn hóa Đông Tây
Các nước phương Tây phát triển khoa học kỹ thuật ,rồi
theo truyền thống tổ tiên bước ra khỏi Châu Âu đi tìm đất mới làm thuộc địa
,lấy tài nguyên và thêm thị trường . Nên nhìn vào các bảo tàng viện ở Canada
chẳng hạn , chúng ta thấy văn hóa Viking, chiến tranh, và hưởng thụ qua các
tranh ảnh và tượng khỏa thân .Ý chí thắng đoạt thiên nhiên cũng là một nét mạnh
trong văn hóa phương Tây.
Trong khi phương
Đông đi vâo nội tâm,sâu lắng và tĩnh lặng . Người ta ca ngợi người con
gái có “công ,dung, ngôn, hạnh” Khi lấy chồng thì thờ chồng ,khi chồng
chết thì ở với con. Người nam thì trung ,hiếu làm đầu...
Khi Đông Tây gặp nhau
Khi Đông Tây gặp nhau ,thì bổ sung cho nhau
đối với người hiểu biết .Không vì nữ giới được bình đẳng và coi trọng , mà ít
người trở nên gay gắt với chồng trong những gia đình tỵ nạn làm tan vở hay gây
phiền lụy , khổ đau trong gia đình. Ít người nữ tỵ nạn lấy chồng Tây tưởng là
hạnh phúc nhưng con người Tây phương có người tốt cũng có người xấu, vũ phu.
Ngược lại gần đây người Tây phương tìm về văn hóa ,tôn giáo phương Đông để có
bình an trong đời sống tâm linh .
Lời kết
Địa lý, môi trường và khí hậu đã làm nhân loại có cùng cội nguồn từ Châu Phi ,trở nên sai khác về văn hóa ,
phong tục cùng hình dáng , mức sống vân..vân...Nếu hiểu được tiến
trình này , nhân loại không còn phân biệt chủng tộc, khác
biệt tôn giáo và văn hóa nói chung để có thể hiểu nhau hơn, sống yêu thương và
thế giới hòa bình và hành tinh này là Thiên Đàng hay Tịnh Độ và chúng ta không phải khổ công
đi vào nội tâm để phá chấp và dẹp những vọng tưởng vốn “không thực”.
NINH VŨ /Toronto / 2015
**********************************
Sở dĩ có
kết luận vững chắc gọi là definitive như vậy là nhờ đã lấy ba tiêu chuẩn sau đây khi làm công tác khảo cứu.
* Địa khai
của người nguyên thuỷ có hình dáng giống người chúng ta đã được tìm
thấy tại châu Phi.
* Dụng cụ
bằng đá và các thủ công có gốc xuất phát từ châu Phi.
* Khảo sát
DNA cho biết châu Phi có loài người từ lúc nguyên thuỷ.
Thời nguyên
thuỷ tại Châu Phi có khõang 15-20 giống dân nhưng một số rất lớn không
để lại con cháu nên gọi là tiệt chủng với nhiều lý do khó biết.
Khoãng giữa 2
triệu - 1.8 triệu năm, loài người nguyên thuỷ gọi là early humans bắt
đầu ra khõi Châu Phi.
Rồi sau đó có
một số trở lại Châu Phi.
“Acient African DNA
Shows Mass Migration Back Into Africa-By Jessica Berman “
Cách đặt tên cho mỗi giống dân gồm có 2 chữ gốc
Latin. Chữ đầu phải là HOMO nghĩa là HUMAN.Chữ sau có thể thay đổi
dựa theo :
* Tên của chỗ đã
tìm được điạ khai.Thí dụ Homo neanderthal tìm thấy tại
thung lũng Neander tại Germany.Tal là tiếng
Germany gọi là thung lũng.
* Tên do các nhà
khảo cổ tự chon.
Thí du Homo erectus.Chữ erectus là tiếng Latin
nghĩa là upright. Homo sapiens. Chữ Latin sapièns nghĩa la wise khôn ngoan .Homo ergaster nghĩa là working man. Homo habilis nghĩa là skillful man.Tiếng Latin habilis nghĩa là skilled, skillfull, able to handle.
Dựa vào địa khai,
loài người nguyên thuỷ gọi là Early humans đã xuất hiện tại Châu Phi vào khoãng giữa 6
triệu - 12 triệu năm trước đây.
* Giống dân
đầu tiên là Homo habilis ở phía Đông của
Châu Phi.Giống dân nầy được gọi là Handy man vì là loài người
đầu tiên biết tạo ra các dụng cụ bằng đá có diện mạo giống loài khỉ
(ape-like features).
Tiếp theo là Homo erectus cho nên có thể
nói Homo habilis là tổ tiên
trực tiếp của Homo erectus, cũng có thể
là một giống dân khác mà khảo cổ chưa tìm được.
* Homo erectus là giống dân kéo dài tới 1.5 triệu năm để tiến hóa. Cái đầu
của họ chỉ thay đổi sau 800 ngàn năm để trở thành Homo sapiens tức là loài
người chúng ta hiện nay goị là Modern humans.
Homo erectus có thêm một
nhánh nữa là Homo erectus ergaster.
Homo ergaster nghĩa là working man.
Một số khoa
học gia chia Homo erectus làm 3 nhóm dựa
theo chỗ tìm được địa khai.
·
Tại châu Phi gọi Homo ergaster.
·
Tại châu Á goị Homo erectus.
·
Tại châu Âu gọi Homo heidelbergensis.Nhóm nầy còn có
một tên nữa là Homo sapiens archaic
Địa khai của 2
giống dân Homo erectus và Homo ergaster được tìm thấy khắp nơi tại châu Phi, châu Á và châu Âu.
Năm 1930, giáo sư khoa mổ xẻ người gốc CANADA tên là Davidson Black (1884-1934) đã tìm được 50 bộ xương của Homo erectus ergaster tại Trung Hoa rồi đặt tên Peking Man.Có thể đây là giống dân đầu tiên ra khỡi châu Phi.
* Ngoài ra vào
năm1856, đã tìm thấy địa khai tại thung lũng Neander in Germany một giống dân đặc biệt lùn, to mâp, đâu lớn, rất khoẻ mạnh, ăn
nhiều được đặc tên là Homo neanderthalensis xuất hiện sống
chung cùng thời với Homo sapiens trong 10 ngàn năm
nhưng rồi bị diệt mất cách nay 28 ngàn năm.
* Có thể tổ
tiên của Homo sapiens và Homo neanderthalensis là Homo heidelbergensis cách nay 600 ngàn năm.
Điạ khai của Homo heidelbergensis được khai quật gần
thành phố Heidelberger
in Germany năm 1907.
Homo heidelbergensis còn được
gọi là Homo rhodesiensis vì được
tìm thấy tại xứ Rhodesia Châu Phi năm 1921.
* VẤN ĐỀ
CÒN CHƯA RÕ RỆT là sự liên hệ giữa
Homo
erectus với Homo sapiens và Homo
neanderthalensis.
**********************************
NGUỒN GỐC CỦA LOÀI NGƯỜI TỪ CHÂU PHI
HENRY DUONG/2015
Dựa theo kết quả
nghiên cưú của hầu hết các khoa học gia về khảo cổ và nhân chủng
học,ngày
nay chúng ta biết rõ tổ tiên của loài người đã được tìm thấy xuất
hiện đầu tiên tại Phi Châu rồi từ đó toả ra khắp nơi trên địa cầu.
Sở dĩ có
kết luận vững chắc gọi là definitive như vậy là nhờ đã lấy ba tiêu chuẩn sau đây khi làm công tác khảo cứu.
* Địa khai
của người nguyên thuỷ có hình dáng giống người chúng ta đã được tìm
thấy tại châu Phi.
* Dụng cụ
bằng đá và các thủ công có gốc xuất phát từ châu Phi.
* Khảo sát
DNA cho biết châu Phi có loài người từ lúc nguyên thuỷ.
Thời nguyên
thuỷ tại Châu Phi có khõang 15-20 giống dân nhưng một số rất lớn không
để lại con cháu nên gọi là tiệt chủng với nhiều lý do khó biết.
Khoãng giữa 2
triệu - 1.8 triệu năm, loài người nguyên thuỷ gọi là early humans bắt
đầu ra khõi Châu Phi.
Rồi sau đó có
một số trở lại Châu Phi.
“Acient African DNA
Shows Mass Migration Back Into Africa-By Jessica Berman “
Cách đặt tên cho mỗi giống dân gồm có 2 chữ gốc
Latin. Chữ đầu phải là HOMO nghĩa là HUMAN.Chữ sau có thể thay đổi
dựa theo :
* Tên của chỗ đã
tìm được điạ khai.Thí dụ Homo neanderthal tìm thấy tại
thung lũng Neander tại Germany.Tal là tiếng
Germany gọi là thung lũng.
* Tên do các nhà
khảo cổ tự chon.
Thí du Homo erectus.Chữ erectus là tiếng Latin
nghĩa là upright. Homo sapiens. Chữ Latin sapièns nghĩa la wise khôn ngoan .Homo ergaster nghĩa là working man. Homo habilis nghĩa là skillful man.Tiếng Latin habilis nghĩa là skilled, skillfull, able to handle.
Dựa vào địa khai,
loài người nguyên thuỷ gọi là Early humans đã xuất hiện tại Châu Phi vào khoãng giữa 6
triệu - 12 triệu năm trước đây.
* Giống dân
đầu tiên là Homo habilis ở phía Đông của
Châu Phi.Giống dân nầy được gọi là Handy man vì là loài người
đầu tiên biết tạo ra các dụng cụ bằng đá có diện mạo giống loài khỉ
(ape-like features).
Tiếp theo là Homo erectus cho nên có thể
nói Homo habilis là tổ tiên
trực tiếp của Homo erectus, cũng có thể
là một giống dân khác mà khảo cổ chưa tìm được.
* Homo erectus là giống dân kéo dài tới 1.5 triệu năm để tiến hóa. Cái đầu
của họ chỉ thay đổi sau 800 ngàn năm để trở thành Homo sapiens tức là loài
người chúng ta hiện nay goị là Modern humans.
Homo erectus có thêm một
nhánh nữa là Homo erectus ergaster.
Homo ergaster nghĩa là working man.
Một số khoa
học gia chia Homo erectus làm 3 nhóm dựa
theo chỗ tìm được địa khai.
·
Tại châu Phi gọi Homo ergaster.
·
Tại châu Á goị Homo erectus.
·
Tại châu Âu gọi Homo heidelbergensis.Nhóm nầy còn có
một tên nữa là Homo sapiens archaic
Địa khai của 2
giống dân Homo erectus và Homo ergaster được tìm thấy khắp nơi tại châu Phi, châu Á và châu Âu.
Năm 1930, giáo sư khoa mổ xẻ người gốc CANADA tên là Davidson Black (1884-1934) đã tìm được 50 bộ xương của Homo erectus ergaster tại Trung Hoa rồi đặt tên Peking Man.Có thể đây là giống dân đầu tiên ra khỡi châu Phi.
* Ngoài ra vào
năm1856, đã tìm thấy địa khai tại thung lũng Neander in Germany một giống dân đặc biệt lùn, to mâp, đâu lớn, rất khoẻ mạnh, ăn
nhiều được đặc tên là Homo neanderthalensis xuất hiện sống
chung cùng thời với Homo sapiens trong 10 ngàn năm
nhưng rồi bị diệt mất cách nay 28 ngàn năm.
* Có thể tổ
tiên của Homo sapiens và Homo neanderthalensis là Homo heidelbergensis cách nay 600 ngàn năm.
Điạ khai của Homo heidelbergensis được khai quật gần
thành phố Heidelberger
in Germany năm 1907.
Homo heidelbergensis còn được
gọi là Homo rhodesiensis vì được
tìm thấy tại xứ Rhodesia Châu Phi năm 1921.
* VẤN ĐỀ
CÒN CHƯA RÕ RỆT là sự liên hệ giữa
Homo
erectus với Homo sapiens và Homo
neanderthalensis.
Dựa vào địa khai và tưởng tượng, những họa sĩ chuyên môn ngành khảo cổ và nhân chủng học anthropology đã vẽ ra những bức hình nầy để giúp chúng ta phân biết sự tiến hóa của loài người gọi là "early humans" từ lúc bắt đầu xuất hiện tại châu Phi.Có những trường hợp họa sĩ phải hợp tác vơi forensic anthropologist rồi áp dụng phương pháp gọi là reconstructions of 2-dimensions or 3-dimensions.
John Gurche là một họa sĩ tốt nghiệp
ngành Nhân Chủng Học Anthropology, làm việc tại Museum of the Earth, Ithaca, New York.
Ông thường đi theo tóan khảo cổ sang châu Phi, chụp hình,đo kích thước chi tíêt của các địa khai mang về cơ sở ở New York, tạo mô hình bằng đất sét, plastic và tính tóan rồi chuyển sang mô hình silicone theo forensic construct.
CÁCH THAY ĐỔI CẤU TRÚC CỦA DNA ,GENOME
DNA thay đổi theo môi trường sinh sống và thay đổi theo nhân tạo tại phòng thí nghiệm sinh học. http://www.kurzweilai.net/scientists-create-new-lifeform
Proteins là những
chuổi nối kết b̉ơi phân tử nhỏ amino acids. Có 20 amino acids khác nhau
trong DNA. Muốn tạo ra một protein chúng ta phải nối rất nhiều chuổi amino
acids.
Một protein trung
bình cần khoãng 150 amino acids.Nhưng các
amino acids phải được nối kết theo một thứ tự đúng (correct order) của protein thì mới có protein
xuất hiện.Thứ tự đó là mệnh lệnh chứa sẵn trong gene.
Vậy mệnh lịnh đó
nằm trong 150
amino acids cho nên khi chúng ta thay đổi base pairs nầy sang chỗ khác ,chúng ta không thể
thay đổi mệnh lệnh có sẵn đó. BÍ MẬT DO TỪ ĐÂU ?
Ông thường đi theo tóan khảo cổ sang châu Phi, chụp hình,đo kích thước chi tíêt của các địa khai mang về cơ sở ở New York, tạo mô hình bằng đất sét, plastic và tính tóan rồi chuyển sang mô hình silicone theo forensic construct.
THẾ
HỆ KẾ TIẾP LOÀI NGƯỜI THỜI CỔ KHI HỒI HƯƠNG VỀ CHÂU PHI ĐÃ MANG THEO
GENES CỦA NGƯỜI MIỀN NAM CHÂU ÂU .
Dựa
vào sự thay đổi cấu trúc của genome
(complete set of DNA, or complete set of genes in a cell), các khoa học gia
đã phát hiện.
-
Cách nay 3000 năm một số thế hệ
kế tiếp của những người đầu tiên rời châu Phi cách nay khoãng 200 ngàn
năm đã trở về lại miền đông châu Phi, mang theo genes không phải của châu Phi trước khi thực dân châu Âu tới (
Before European colonizers arrived ).
-
Cách nay 900-1800 năm ,những thế
hệ tiếp nối từ miền đông châu Phi đã di chuyển xuống tận miền nam
châu Phi sống chung với bộ tộc thiểu số Khoe-San hoặc Khoi-San
goị hunter-gathers đã có mặt ở
đây từ 2000 năm trước.
Khoi và San là hai sắc tộc có ngôn ngữ
rất giống nhau.
Sắc
tộc San sống bằng nghề săn thú
rừng nên gọi hunters-gathers.
Sắc
tội Khoi chuyên sống bằng nghề
chăn nuôi dê ,cừu,trâu bò,heo trên những cánh đồng cỏ phì nhiêu.
Khi
Hòa Lan đến đô hộ châu Phi, sắc
tộc San bị khinh miệt và gần
như bị diệt mất nên hiện nay còn sói lại khõang 80,000 người.
Số
sắc tộc San còn sót lại đến
sống chung với sắc tộc Khoi và bỏ
nghề săn bắn vì bị chính phủ thực dân cấm phải chuyển qua nghề
trồng trọt và chăn nuôi như sắc tộc Khoi.
Do đó mới có tên là thiểu số
Khoi-San hay Khoe-San nay đã được quyền tự trị.
Sắc
tộc San coi như là sắc tộc sống
với thiên nhiên không bị ô nhiểm,
có nghệ thuật vẽ trên đá, trong hang đông g̣oị là Rock-Arts.
Sau
khi khảo sát genomes của 1000 người thuộc 22 nhóm dân châu Phi, tóan
nghiên cứu của Harvard Medical School in Boston, Massachusetts đã tìm thấy người Khoe-san
có 2 loại genomes khác nhau.
Một
loại genome của người châu Phi và một lọai không phải của người châu
Phi (non-African genes) vì loaị genome nầy có thêm genes của người ở
miền nam châu Âu (Modern southern
Europeans).
Ngoài
ra theo kết quả khảo sát của giáo sư
Tishkoff, a genetic anthropologist thuộc University of Pennsylvania in Philadelphia,cho
biết những người hồi hương đã
mang theo ngôn ngữ mới và kỹ thuật chăn nuôi goị herding techniques đã học được.
CÁCH THAY ĐỔI CẤU TRÚC CỦA DNA ,GENOME
THAY ĐỔI CẤU TRÚC TRONG
DNA LÀM XUẤT HIỆN GENE MỚI.
Trong mỗi tế bào sinh vật
(organism) có một cái nhân gọi là nucleus.Trong nucleus có chromosomes.
Chromosomes cấu tạo bởi DNA.
* Chromosome được khám phá năm 1842
bởi Karl Wilhelm von Nägeli khi nghiên cứu nhân của tế bào .Vì chromosome hấp thụ màu
của thuốc nhuộm nên đặt tên là chromosome
do ghép 2 chữ gốc Hi Lạp ( khroma nghĩa là color,soma là body).
* Gene là tên lấy gốc từ
tiếng Hi lạp là genea (nghĩa la
skin,race,generation)có khả năng tạo
ra tế bào và mang đặc tính hướng dẫn di truyền.Trong DNA , Gene là tên của một vùng (region
of DNA) ngắn hoặc dài của DNA có
nhiệm vụ di truyền. Giữa 2 genes
có một khỏang gọi là Junk DNA vì các khoa học gia chưa
tìm ra nhiệm vụ của nó.
DNA là chữ viết tắt của chữ Desoxyribo Nucleic Acid có kiến trúc như hình vẽ.
Tên hóa học của DNA được
khám phá từ năm 1869.Đến năm 1943 các nhà nghiên cứu mới biết DNA mang nhiệm vụ di truyền (inheritance).
Hai khoa học gia tên là JAMES DEWY WATSON( USA) và FRANCIS H.COMPTON CRICK (England) tại Cambridge University, England
là 2 người duy nhất trong số rất đông khoa học gia đã tìm được cấu trúc hóa học của DNA (Chemical
structure of DNA) vào tháng April năm
1953. Đây là một sự khám phá
vĩ đại cho nhân loại vì đã tìm được chỗ chứa đựng bí mật của sự
sống mà nhân loại gọi là The secret of life.Cả hai khoa học gia đã được
giải thưởng Nobel năm 1962.
(Henry Duong, người viết và vẽ lại theo kiến thức đã
học để giúp quý bạn khắp nơi muốn tìm biết sự bí mật nầy theo
phương pháp ngắn gọn dễ nhớ và không mất nhiều thì giờ.)
Dựa theo phân tích cho thấy DNA
gồm có 2 sợi dây (2 strands)có hình
xoắn ốc ngược chiều nhau,rất
dài nối kết bởi rất nhiêu nucleotides
nên DNA còn được gọi là long chain polynucleotides.
Mỗi nucleotide gồm có một phân tử phosphate,một phân tử five-carbon sugar và một trong 4 nitrogenous bases có tên: A, G, T, C.
A : adenine ; G :
Guanidine ; T : Thymine ; C : Cytocine.
T,C là single-ring
pyrimidine bases. A, G là double-ring purine bases.
Cấu trúc hóa học
của DNA gồm có 2 sợi dây (2 strands) gọi backbone có hình xoắn ốc
ngược chiều nhau và quấn vào nhau, cấu tạo bởi các phân tử carbon - sugar S và
các phân tử phosphate P .
Các bases có tên
dưới đây nối 2 sợi dây nầy với nhau làm cho DNA giống hình cái thang ( ladder) và các
bases thì giống hình của những bậc thang(rungs).
A : adenine ; G : Guanidine ; T : Thymine ; C : Cytocine
T, C là single-ring pyrimidine bases. A, G là double-ring
purine bases.
Theo quy luật, A nối với T và C nối với G bằng hydrogen bonds thành những cặp gọi là base pairs.
Cặp A-T có 2 hydrogen bonds . Cặp
C-G có 3 hydrogen bonds. Nhờ
quy luật nầy chúng có thể tính được chiều dài của DNA và biết được
tên của base kết hợp nằm trên dây đối diện.
DNA của loài người
có khõang 3.2 billion base pairs.
(The length of DNA is
measured by the number of base pairs)
Theo nghiên cứu, các
khoa học gia đã tìm thấy một simple
amino acid dùng để tạo ra
protein cần phải có 3 nucleotides hoặc 3 bases nên đặt ra quy luật gọi triplet.
Triplet là một
nhóm gồm có 3 chữ lấy từ A,T,C,G (Tên của 4 bases nói trên)
Thí du triplet AGC chứa amino acid tên
là SERINE, ACC là amino acid THREONINE.
Triplet còn có tên
chuyên môn là CODON.Trường hợp đặc
biệt có một số nhiều amino acids cần nhiều codons.Thí dụ.
1-Phenylalanine F
TTT, TTC
2-Methionine M ATG
3-Cysteine C TGT,
TGC
4-Alanine A GCT, GCC, GCA, GCG
5-Glycine G GGT, GGC, GGA, GGG
6-Isoleucine I ATT, ATC, ATA
7-Leucine L CTT, CTC, CTA, CTG, TTA, TTG
8-Valine V GTT, GTC, GTA, GTG
9-Proline P CCT,
CCC, CCA, CCG
10-Threonine T
ACT, ACC, ACA, ACG
11-Serine S TCT,
TCC, TCA, TCG, AGT, AGC
12-Tyrosine Y
TAT, TAC.
13-Tryptophan W TGG
14-Glutamine Q
CAA, CAG
15-Asparagine N
AAT, AAC
16-Histidine H
CAT, CAC
17-Glutamic acid E GAA, GAG
18-Aspartic acid D GAT,
GAC
19-Lysine K AAA, AAG
20-Arginine R CGT, CGC, CGA, CGG, AGA, AGG
Stop codons Stop TAA,
TAG, TGA
Có tổng cọng 20
amino acids chứa trong 64 codons
Khởi đầu của codon
là ATG và
kết thúc là TAA TAA (double codon).
Những codons nào
có đặc tính tạo ra protein và đặc tính di truyền thì được đặt tên
là GENE.
Giữa 2 GENES có một khoảng của
DNA được đặt tên là JUNK DNA vì chưa tìm được nhiệm vụ của nó.
MUTATION.
Khi gene của DNA có sự thay đổi hoặc hư hỏng
làm mất tính di truyền của gene
thì gọi là MUTATION.
“Mutation occurs when a DNA gene is damaged or
changed in such a way as to alter the genetic message carried by that gene.”
Phóng xạ, hóa chất, UV từ mặt trời, free radicals, v.v… tạo
ra sư hư hỏng của hàng ngàn nucleotides
nghĩa là chúng chuyển đổi từ base nầy sang base khác , đẩy các bases
ra khõi dây DNA hoặc phá vở các
bases.
May thay các tế bào thường
có khả năng tự chữa lại những
sự hư hỏng đó ( fixing damage nucleotides and repairing broken
DNA strands back).Nếu tế bào không tự sửa chữa được thì thân thể bị ung thư.
Cystic
fibrosis, sickle cell anemia,
Tay-Sachs disease, phenylketonuria and color-blindness.là
những bịnh gây ra bởi mutation of a
single gene.
Bịnh
thiếu máu sickle
cell anemia do tế bào máu biến dạng thành hình lưỡi
liềm sickle shape, ngăn chận lưu thông
của máu trong mạch máu.Đây là bịnh do mutation của một nucleotide trong hemoglobine gene
Xử dụng chất chống ánh nắng của
mặt trời gọi là SUN SCREEN là cách ngăn chận mutation.
Nhưng MUTATION không luôn luôn xấu.Có rất nhiều nghiên cứu
cho biết nhờ có MUTATION, sinh vật mới có thể tồn tại vì thích ứng
với môi trường sinh sống, khán chống lại những bịnh chưa có thuốc
chữa trị.
Thí dụ.
Tổ tiên của loài người chúng ta là
Homo habilis gốc ở châu Phi có da
rất đen như cột nhà cháy vì da có rất nhiều melanin để hấp thụ UV
của ánh sáng mặt trời quá mạnh mới có thể tồn tại , không bị bịnh ung thư da.
Sau đó tổ tiên kế tiếp là Homo erectus rời bỏ châu Phi phân
tán khắp nơi trên địa cầu,trong DNA của
tổ tiên đã xãy ra MUTATION một
cách tự động âm thầm gọi là silent mutation để phù hợp với môi trườmg
sống.
Trong DNA ,màu sắc da của loài người do nhiều genes hợp tác làm
việc với nhau để thay đổi âm thầm lượng melanin cho phù hợp với môi
trường sinh sống.
TẠO
GENES MỚI TẠI PHÒNG THÍ NGHIỆM
Có 3
phương pháp tạo mutation types :
* Thay
thế một base pair bằng một base base khác̣(The substitution
of one base pair for another) .
* Xóa
bỏ một hay nhiều base pairs (The deletion of one or more base
pairs).
* Ghép
thêm và một hay nhiều base pairs.(The insertion of one or more
base pairs to DNA.)
Phương
pháp thay thế rất thông dụng.Với phương pháp nầy chúng ta
thay đổi dọc (transition)và ngang ( transversion) giữa base purine và base
pyrimidine.
Mutation dọc và ngang |
DNA thay đổi theo môi trường sinh sống và thay đổi theo nhân tạo tại phòng thí nghiệm sinh học. http://www.kurzweilai.net/scientists-create-new-lifeform
Scientists create new lifeform with added DNA base pair
LOGO TÓM LƯỢC DNA CẦN
NHỚ.