TÌM HIỂU THỔ DÂN ĐÃ SINH SỐNG TẠI SAN CLEMENTE VÀ SAN JUAN CAPISTRANO THUỘC TIỂU BANG CALIFORNIA USA.
Lảnh thổ California
có thể chia ra năm thời kỹ như sau.
Mười ngàn năm trước đây
tới 1542 là đất của thổ dân (Native Indians)
Từ 1542 tới 1769 là thời
kỳ của thám hiểm Âu Châu (European Exploration)
Từ 1769 tới 1821 là thuộc
địa cuả Tây Ban Nha (Spanish Colonial)
Từ 1821 tới 1848 là lảnh
thổ cũa Mể
Tây Cơ (Mexico)
Từ 1850 cho tới hiến nay là
tiểu bang của Hoa Kỳ (USA)
1-Tên gọi của thổ dân
Hơn 9500 năm trước đây đã có những làng
thổ dân-Native Indians Villages - sinh sông tại bang California với dân số tổng
cọng khoảng 275 ngàn người.
Theo
tài liệu để lại của Linh Mục Fray Gerónimo de Boscana
(Linh mục truyên giáo tại San Juan Capistrano Mission từ nâm 1812 tới năm
1822) cho biết khi lính Tây Ban Nha tới
chiếm vùng đất San Clemente và San Juan Capistrano đã bắt thổ dân đang
sinh sống tại một ngôi làng lớn có tên là Acjachemen để làm công nhân nô lệ xây dưng nhà thờ cho San Juan Capistrano Mission năm 1776 theo sự lảnh
đạo của linh mục Junipero Serra .
Vì đã được rửa tội và làm công nhân xây
dựng nhà thờ nên thổ dân Acjachemen
được goị bằng tên theo tiếng Tây Ban Nha là Juaneños
hoặc Sanjuaneños .
Người đi
theo nhà thám hiểm Gaspar de Portola và
sau đó đi theo linh mục Junipero Serra là Juan Jose
Dominguez một người lính của Tây Ban Nha đã về hưu.
Năm
1812 số người Juaneno được rửa tội theo
đạo là 3340. Có1361 người được trú ngụ trong khu
của Đoàn Truyền Giáo.
Năm
1834 dân số Juaneno chỉ còn 800
vì đã chết quá nhiêu vì bịnh do Tây Ban Nha mang tới.
2-Làng của thổ dân
Vào năm 1200 co hai chổ sinh sống quan trọng
của thổ dân.
Một làng lớn gọi là Putuidem ở
gần San Juan Capistrano có những
làng nhỏ vây quanh.
Một số thổ dân của những làng Acjachemen đi chuyển tới vùng biển phía nam San Clemente có tên là tộc Panhe.
Panhe nghĩa là sống gần nước.
Hiện nay vùng bờ
biển San Onofre State Beach cuả
San Diego County là nơi linh thiêng của thổ dân Panhe đang được chính phủ
bảo vệ vì tổ tiên của tộc Panhe đã chôn cất tại đây.
3-Nhà của thổ dân.
Nhà của
thổ dân có hình tròn gọi là kiichas làm bằng cành cây, cây lau sậy và
loại cỏ có lá cao lớn mọc ven bờ nước ( branches,
reeds , tulle grass),
tập trung thành làng.Dân số trong làng khoảng 35-300 ngươì.
Mổi tộc
trong làng có đẩt đai riêng. Các làng chỉ liên lạc với nhau về kinh tế
và đức tin.
Thô dân
tại California không co chử viết nhưng có khoảng 300 ngôn ngữ khác nhau
tùy theo vùng sinh sống.
4-Đức tin của thổ
dân.
Thổ dân
có đức tin trên trời có Chúa tên la
Chinigchinich.
Họ tin tưởng Chinigchinich là đấng sáng tạo ra tất cả, đặc biết đã tạo ra các thần trả thù (avengers) quan sát đức hạnh của con người.
------------------------------------------
California là thuộc địa của
Tây Ban Nha (Spanish Colonial) từ 1769 tới 1821 nên đất của thổ dân bị Tây Ban Nha
chiếm hết.
1542 –Thuyền trưởng Juan Rodriquez Cabrillo đặt chân tới California lần đầu tiên.
1602 – Nhà thám
hiểm Tây Ban Nha Sebastian Vizcaino (1548–1624) lấy tên của
thánh Saint Clement đật tên cho
hòn đảo nằm ngoải biển San Clemente. Vi lịch dùng để ghi chép
ngaỳ xưa của Tây Ban Nha lấy tên thánh làm ngày .
Lịch goị là
The Saint Day Calendar cho biết
mồi ngày có một vị thánh để nhớ dùng cho nhà thờ Thiên Chúa.
Vizcaino tơi đảo của San Clemente vào ngày 23 tháng 11 năm 1602 là ngày của
thánh Saint Clement, tên của đức
giáo hoàng thư ba của Thiên Chúa La Mã.
1769 – Gaspar de Portola chỉ huy phái đoàn đi tim chổ dựng lập cơ sở cho đoàn truyền giáo gọi là MISSION cuả nước Tây Ban Nha tại California. Chổ đầu tiên tìm được đặt tên là thung lũng Cristianitos Canyon 1769-1770
1776 – Linh mục Junipero Serra (1713-1784)
người Tây Ban Nha tới San Juan Capistrano, xây cất khu El Camino Real để làm cơ sở
truyền giáo và để nối kết với các đoàn truyền giáo khác, xây
cất đầu tiên nhà thờ Serra Chapel hoàn thành vào năm 1782 để làm lễ mi-sa và rửa tội cho thổ
dân.
Sau đó vì thổ
dân theo đạo quá đông nên năm 1797 Linh Mục
Serra cho khởi công xây thêm bằng tảng đá một nhà thờ lớn gọi là Great Stone Church.
1812- Trận động đất tháng 12 năm 1812 làm sụp đổ nhà thơ đã xây dựng bằng tảng đá và làm thiệt mạng 40 thổ dân đã theo đạo thiên chúa khi 120 tháp chuông sụp xuống (120 bell tower falls). Chỉ có 4 tháp có chuông treo còn sót lại cho tới hiện nay.
Riêng Serra Chapel không bị sụp đổ và đã được trùng tu giống như cũ.
Lý do xây nhà thờ đầu tiên bị chậm trể.
Linh
mục Fermín
de Lasuén là
người rất thương mến thổ dân và cũng là người đầu tiên tìm được San Juan Capistrano vào ngày 30 tháng 10 năm 1775.
Vài
tuần sau đó trong đêm ngày 5 tháng 11 xãy ra cuộc nổi lọan của thổ dân (Indian revolt) tại San
Diego vì đất của thổ dân bị Đoàn Truyền Giáo chiếm đọat.
Có 600 thổ dân đốt phá cơ sở
của San Diego Mission và giết chết linh mục Luis Jayme nên lính Tây Ban Nha và các
linh mục phải đi tiếp cứu.
Khi
thổ dân tự ý ngưng chống đổi, linh mục Serra
đích thân dẫn quân linh trở lại San Juan Capistrano vào ngày 1 tháng 11 năm 1776 rồi sau đó xây dựng một
nhà thờ nhỏ đầu tiên gọi là Serra Chapel
hoàn thành vào năm 1782 để làm lễ
mi-sa và rửa tội cho thổ dân.
Đến
năm 1797 linh mục Serra bắt đâu xây dựng
thêm một nhà thờ gọi là Great
Stone Church
bằng các tảng đá vì thổ dân theo đạo quá đông nên cần phải có nhà thờ
lớn hơn
1784 –Vua của Tây
Ban Nha Carlos III cấp cho Juan José
Dominguez 75 ngàn mẩu
tây đất để chăn nuôi ở Nam California kề cả hải cảng Los Angeles vi.Juan Jose Dominguez lả lính Tây ban
Nha đã về hưu có công đi California theo đoàn thám hiểm Portola và sau đó đi theo linh mục Junipero Serra.
1821
–Nước Mexico dành được độc lập, thoát khoỉ đô hộ của thực dân Tây Ban Nha (Spain) cho nên đất California
thuộc sở hưủ của Mexico nhưng Mission vẫn tiếp tục xuống dốc (continued
decline).
1845-Thống đốc của
Mexico là Pio Pico bán Mission cho em rể là John Forster. Trong 20 năm tiếp theo gia đình Forster
là điền chủ của Mission.
1850- California trở thành tỉểu bang của Hoa Kỳ.
1865-Tông thống Abraham Lincoln giao Mission cho Catholic Church nhưng Mission vẫn bị bỏ hoang mãi tới năm 1866 linh mục Jose Mut mới được gửi tới thăm viếng thấy tất cả đều tàn rụi, chỉ còn sót nhà thờ nhỏ Serra Chapel vì có mái che nên đang được xử dụng chứa cỏ khô.Linh mục cố gắng sửa chửa nhưng chỉ làm được chút ít mà thôi.
Năm 1910 Linh Mục John O’Sullivan tới thuê mướn thợ Mexican và tự mình lo trùng tu. Đến năm 1918, Linh Mục xin giấy phép cho nhà thờ hoạt động như bình thường.
Bàn
thờ của nhà thờ Serra Chapel làm bằng
gổ của cây cherry có đặc điêm không méo, không cong, không bị ành hưởng
của ẩm độ và được bọc bằng vàng lá.
Trên
bàn thờ có bức tượng của Thánh John Capistran
được chọn để đặt tên cho San Juan Capistrano
Mission. Bàn thờ mới nầy của Tây Ban Nha gửi tặng năm 1906 , không phải là bàn thờ nguyên thuỷ của
lúc xây nhà thờ năm 1782
1986 -XÂY DỰNG THÊM NHẢ THỜ MỚI HOÀN THÀNH NĂM 1986