WELCOME TO BLOGGER VQGĐC

THÂN CHÀO QUÝ BẠN
CLICK HERE TO OPEN

Tất cả hình ảnh, những hoạt động cùng cơ sở Định Chuẩn rồi cũng cùng với thời gian rơi vào khoảng không
Nếu còn gì rớt lại chỉ là những tình cảm của những con người đã một thời làm việc chung dưới một mái nhà
mà nay đả tản mác khắp bốn phương trời
Ninh Vũ / Phòng Thí Nghiệm VQGĐC

Sunday, June 30, 2013

EXAMPLES OF USING ONCHANGE AND SELECT ONCHANGE

Những thí dụ xử dụng onchange và select onchange. 
onchangeevent handler (The event handler is triggered when the 
specified event occurs ) và cũng là attribute có syntax như sau.
                            onchange=” script command “
Script command là javaScript code, javaScript function, javaScript statement, 
javaScript program dùng để call function hay parse value.
onchange được xử dụng cho input, select , textarea , iframe và div.
 Thí dụ xử dụng onchange và select onchange.
4- Dùng onchange để call function .Thí dụ function nầy sẽ báo cho biết khi
 nào trong textarea có sự thay đổi.
5- Dùng select onchange cho droplist. Trong droplist có nhiều option values.
.Khi chọn xong value thì onchange mới vận hành để call function.
5-1-Thí dụ nầy function display() sẽ viết option value đã chọn vào trong 
div tag khi onchange vận hành.














5-2- Dùng select onchange để thay đổi background color

Chữ this đi với parameter a. Vì muốn display value nên nối kết value với 
selectedIndex.
Nếu chỉ muốn display số thứ tự 1, 2, 3 … thì viết.
var col = a.selectedIndex 
6- Dùng select onchange đơn độc không cần phải có 
javaScript function.
Áp dụng phương pháp nầy để thay đ̉i màu sắc , độ lớn, kiểu chữ viết của từng chữ một hay từng câu theo ý muốn mà không gây ảnh hưởng đến các chữ khác.
6-1-Thí dụ nầy giúp chúng ta biết cách thay đổi màu sắc của chữ.

this.options : đưa tới các options trong select tag.
this.selectedIndex : đưa tới index của selected item.
Nếu chúng ta muốn chọn 1st item thì viết this.selectedIndex=0.
value : là value của option. Nếu áp dụng cho text thì thay chữ
value bằng chữ text
Khi dùng document.execCommand() thì trong div tag phải viết thêm
contenteditable="true" mới ok.
6-3- Thí dụ nầy làm thay đổi màu của tất cả những gì viết trong textarea.
Không cần làm highlite.

6- 4 - Thí dụ nầy làm thay đổi màu của tất cả những gì viết trong div tag.
 Không cần làm highlite nhưng phải viết contenteditable= “true” trong
div tag mới OK.

6-5 -Thí dụ nầy cho biết cách chọn những trang html.
Value là những trang mà chúng ta đã save với dạng html.
Những trang html nầy gồm có bài viết, hình vẽ cố định và hình vẽ di động.
còn tiếp

Thursday, June 20, 2013

Tại sao Sa Môn Bắc Tông Đại Thừa phải ăn chay trường .

      Để có giải đáp chúng ta phải tìm đọc Kinh Phật. Kinh Phật có rất nhiều và được chia hai phái là Kinh Nam TôngKinh Bắc Tông.
Phái Bắc Tông tìm đọc kinh Nam Tông nhưng phái Nam Tông không chấp nhận kinh của phái Bắc Tông.
 Lokaksema (147 - ?) người Ấn Độ là sa môn đầu tiên đem Kinh Đại Thừa quảng bá rộng rãi tại Trung Hoa. Ngài đã dịch hơn 20 kinh Đại Thừa làm nền tản xây dựng Đại Thừa Phật Giáo cho Trung Hoa.
Danh từ Đại ThừaTiểu Thừa xuất hiện rõ rệt trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa do ngaì Dharmaraksha dịch từ Phạn ngữ sang Hoa ngữ vào những năm 286 AD.
Nhưng bản dịch vào năm 406 AD của ngài Kumarajiva ( Cưu Ma La Thập ) được ưa chuộng hơn hết.
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn Đức Phật cũng có nhiều lần nhắc tới đến hai chữ đại thừa.
Phái Bắc Tông tự nhận mình là Đại Thừa (Great Vehicle) nghĩa là cổ xe lớn chở nhiều ngườị và gọi tông phái khác là Tiểu Thừa ( little vehicle) nghĩa là cổ xe nhỏ như phân biệt trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Khi Đức Phật bắt đầu thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa trong núi Kỳ Xà Quật có 5 ngàn người liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật rồi lui về. Đức Thế Tôn yên lặng không ngăn cản.(Xem phẩm Phương Tiện Kinh Pháp Hoa trang 65-Hoà Thượng Thích Trí Tịnh dịch, ấn loát năm 1960).

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa -  HT Thích Trí Tịnh dịch
Phẩm Tín Giải , trang 163 .
" Vì sao từ xưa đến nay chúng con thật là phật tử mà chỉ ưa pháp tiểu thừanếu chúng con có tâm ham đại thừa thời Phật vì chúng con mà nói pháp đại thừa. Ở trong kinh nầy chỉ nói pháp nhưt thừa. Lúc xưa đức Phật ở trước Bồ Tát chê trách Thanh Văn ham pháp tiểu thừa"
(Chúng con là những ai ? Là Tu Bồ Đề, Đại Ca Chiên Diên, Đại Ca Diếp và Đại Mục Kiều Liên )

Phẩm Như Lai Thọ Lượng , trang 413 :
Các thiện nam tử ! Như lai thấy những chúng sanh ưa nơi pháp tiểu thừa, đức mỏng tội nặng. Phật vì người đó nói : Ta lúc trẻ xuất gia đặng đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, nhưng thiệt, từ ta thành Phật nhẫn lại, lâu xa dường ấy, chỉ dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh, khiến vào Phật đạo, nên nói như thế. “

Kinh Đại Bát Niết Bàn - Tập I - HT Thích Trí Tịnh dịch
Phẩm Phạm Hạnh.
Phật dạy :
  • Trang 504 – “ Rời niệm ưa sanh tử mà ưa thích đại thừa đại Niết Bàn đầy đủ pháp thân đặng các tam muội vào nơi biển lớn trí huệ rất sâu”
  • Trang 505 –“ Do nhơn duyên nầy khiến tất cả chúng sanh trọn nên đại thừa, trụ nơi đại thừa, bất thối đại thưà, bất động chuyển thừa, kim cang toà thừa. Chẳng cầu Thanh Văn Duyên Gíac, chỉ hồi hướng nơi Phật thừa vô thượng.“

        Kinh Đại Bát Niết Bàn có 4 bản dịch sanscrit-chinese.
Bản dịch Kinh Đại Bát Niết Bàn đầu tiên và ngắn nhất của Ngài Faxian và ngài Buddhabhadra xuất hiện vào năm 418.

                             Ăn chay hay ăn mặn.

 Sa Môn Thích Tử của phái Bắc Tông tất cả đều biết rõ những lời dạy trong Kinh Đại Bát Niết Bàn và Kinh Lăng Già nên phải ăn chay trường mới dám mặc áo Sa Môn .

                           Phẩm Tứ Tướng - Kinh Đại Bát Niết Bàn
                           Tập I , trang 123 - HT Thích Trí Tịnh dịch
                            --------------------------------------------------------

Ca Diếp bạch Phật : “Đức Như Lai nếu chế không được ăn ngư nhục, thời những thứ sữa, bơ, dầu, v.v…và các thứ y phục kiều xa gia, đồ bằng da thú, ngọc ngà, bồn chậu bằng vàng bạc, cũng đều chẳng nên dùng ”

Phật dạy :Nầy Ca Diếp ! Chẳng nên có kiến chấp đồng với bọn loã thể ngoại đạo kia. Bao nhiêu cấm giới của Như Lai chế ra đều có dị ý. Vì dị ý nên cho ăn ba thứ tịnh nhục. Vì dị ý nên cấm ăn mười thứ thịt. Vì dị ý nên cấm tất cả thứ thịt đều không được ăn, dầu là thịt của con vật tự chết.

Nầy Ca Diếp ! Từ nay Như Lai cấm các đệ tử không được ăn tất cả thứ thịt.

Nầy Ca Diếp, Người mà ăn thịt, hoặc đi đứng nằm ngồi, chúng sanh nào nghe đến hơi thịt thời kinh sợ. Ví như người ở gần sư tử, đi đến đâu , mọi người nghe mùi hôi của sư tử đều kinh sợ. Như người ăn tỏi, không ai dám gần người ấy vì tanh mùi tỏi. Kẻ ăn thịt cũng vậy, tất cả chúng sanh nghe hơi thịt, thảy đều kinh sợ, nghĩ đến sự chết, các loài cá trạnh , muông thú cùng chim chóc,  đều chạy tránh xa, đều có quan niệm rằng người ấy là kẻ hại ta. Vì thế nên Bồ Tát không ăn thịt, vì độ chúng sanh mà thị hiện ăn thịt. Dầu thị hiện ăn thịt mà thật ra thời không có ăn.

Sau khi Như Lai nhập niết bàn, các bực tứ quả Thánh nhơn đều lần lượt nhập niết bàn.
Sau khi chánh pháp diệt, trong thời tượng pháp, sẽ có các tỳ kheo in tuồng trì luật, ít đọc tụng kinh, tham ưa ăn uống, lo bồi bổ thân thể, y phục mặc trên thân thô xấu hôi dơ, hình dung tiều tụy không có oai đức, chăn nuôi bò dê, vác củi gánh cỏ, tóc râu để dài, dầu mặc cà sa mà như thợ săn, dầu ngó xuống đi chậm rả̃i mà như mèo rình chuột. Thường tự xướng rằng ta chứng được quả A La Hán, mang nhiều bịnh khổ nằm lăn trên phẩn uế, ngoài thời hiện ra tướng hiền thiện, trong thì đầy lòng tham sân như bà la môn, thọ phép câm, thiệt chẳng phải Sa môn mà hiện tướng Sa môn, tà kiến xí thạnh,chê bai chánh pháp. Những người như vậy phá hoại giới luật chánh hạnh oai nghi của Như Lai chế và quả của Như Lai nói.

Họ rời pháp thanh tịnh và làm hư hoại giáo pháp thậm thâm bí mật. Họ theo ý riêng, nói ngược với kinh luật rằng đức Phật cho phép chúng tôi ăn thịt. Họ đều tự xưng là Sa môn Thích tử.

Nầy Ca Diếp !  Bấy giờ có hàng Sa môn chứa thóc, nhận lấy thịt cá, tự tay nấu ăn, cầm xách bình dầ ăn, cùng giày dép bằng da và lọng báu, thân cận quốc vương ,quan lớn, nhà giàu sang, xem tướng, coi sao, siêng học nghề thuốc, chứa nuôi tôi tớ, vàng bạc bảy báu, các thứ dưa trái, học tập các nghề : nghề vẽ, nghề nắn, làm sách dạy học, gieo trồng, chú thuật, chế thuốc, đờn ca xướng hát, hương hoa trang điểm, cờ bạc, học các nghề thợ.

Nếu có tỳ kheo nào hay tránh lìa các việc ác như trên, nên nói người ấy thật là đệ tử của Như Lai.

Ca Diếp bạch Phật : Bạch Thế Tôn  !  Các Tỳ  kheo, Ty kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, nhơn người khác giúp mà sống. Lúc khất thực nếu đặng món ăn lộn với thịt phải làm cách nào để ăn đúng với pháp thanh tịnh

Phật dạy : Nầy Ca Diếp ! Nên lấy nước rửa sạch thịt rồi hảy ăn. Nếu đồ̀ đựng bị thịt làm dơ, chỉ làm cho không có vị thịt thời cho phép được dùng không tội. Nếu thấy thức ăn có nhiều thịt thời không được nhận. Tất cả thứ thịt đều không được ăn. Người ăn thịt thời phải tội.

Nay Như Lai xướng điều chế đoạn nhục như vậy, nếu giảng rộng thời không thể hết. Giờ niết bàn gần đến nên phải nói lược.

                                        --------------------------------------------


                Kinh Lăng Già Tâm Ấn – Sa môn Gunabhadra dịch Phạn Hán
                             Hoà Thượng Thích Thanh Từ dịch Hán Việt
                Ấn loát năm 1987- Phẩm  Nhất Thiết Phật Ngữ Tâm -Trang 403
(  Lăng Già - Lankara - là tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ Xoa. Bởi vua Dạ Xoa thỉnh Phật thuyết pháp trên núi nên lấy tên núi đặt tên kinh. )
                  Đại Huệ thỉnh hỏi tội phước ăn thịt và chẳng ăn thịt.

Bồ tát Đại Huệ nói kệ hỏi rôi, lại bạch Phật : Cúi mong Thế Tôn vì chúng con nói lỗi ác ăn thịt và công đức chẳng ăn thịt……

Phật bảo Đại Huệ ! Lành thay, lành thay, lắng nghe, lắng nghe, khéo suy nghĩ đó, tôi sẽ vì ông nói.
Đại Huệ bạch Phật : Xin vâng thọ giáo.
Phật bảo Đại Huệ : Có vô lượng nhơn duyên không nên ăn thịt. Song ta vì ông lược nói. Nghĩa là tất cả chúng sanh từ trước tới nay nhơn duyên lần lượt thường làm lục thân, vì tưởng người thân không nên ăn thịt. Thịt lừa, loa, lạc đà, chồn, chó, trâu, ngựa, người, thú v.v…,vì người hàng thịt bán lẫn lộn chẳng nên ăn thịt. Vì phần hơi chẳng sạch được sanh trưởng, chẳng nên ăn thịt, vì chúng sanh ngửi mùi thảy sanh kinh sợ như Chiên Đà La và Đàm bà v.v…,chó thấy óan ghét sợ hải sủa vang, chẳng nên ăn thịt.
Lại vì khiến người tu hành từ tâm chẳng sanh, chẳng nên ăn thịt. Vì kẻ phàm phu tham đắm ăn đồ hôi hám bất tịnh, không được tiếng tốt, chẳng nên ăn thịt. Vì khiến chú thuật không thành tựu, chẳng nên ăn thịt. Vì người sát sanh thấy hình khởi thức đắm trước mùi vị, chẳng nên ăn thịt. Vì người ăn thịt kia chư thiên bỏ đi, không nên ăn thịt.Vì khiến miêng hôi hám, không nên ăn thịt. Vì nhiều mộng dử, không nên ăn thịt. Vì khiến ăn uống không tiết độ, chẳng nên ăn thịt. Vì khiến người tu hành chẳng sanh nhàm lìa, không nên ăn thịt.
Ta thường nói rằng: Phàm có ăn uống nên khởi tưởng như ăn thịt con, khởi tưởng như uống thuốc, không nên ăn thịt. Cho ăn thịt hẳn là vô lý vậy.

                                           -----------------------------------


Sơ lược tiểu sử Hoà Thượng Thích Trí Tịnh ( Trích trong Hương Sen Vạn Đức - Thôn Di Đà )
Hòa thượng pháp danh là Thiện Chánh, tự Trí Tịnh, pháp hiệu Hân Tịnh, húy Nhựt Bình, thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41. Là đệ tử của Cố Hòa Thượng: thượng Thiện hạ Quang, khai sơn chùa Vạn Linh ở núi Cấm, Châu Đốc. Hòa thượng thế danh là Nguyễn Văn Bình, sanh ngày 17 tháng 10 năm 1917 (ngày 02 tháng 09 năm Đinh Tỵ), tại xã Mỹ An Hưng (Cái Tàu Thượng), huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp)………………………..
Với hoài bão truyền đăng tục diệm, hoằng dương chánh pháp, kiến tạo Già Lam, Hòa Thượng được Phật tử cung thỉnh về ngôi chùa cổ kinh không người thừa kế trên một vùng đất hoang vu vắng vẻ ít người đi lại, tọa lạc tại ấp Bình Đức, xã Tâm Bình, quận Thủ Đức, phường Tam Phú, quận Thủ Đức, TPHCM. Nơi đây, Hòa Thượng khai sơn tạo dựng Già Lam, lấy tên là Vạn Đức. Lần lần, do uy tín và đạo đức của Hòa Thượng, Tăng Ni quy tụ về cất chùa am chung quanh, biến nơi này thành một đạo tràng lớn mà hiện nay, nói đến đạo tràng Vạn Đức ai ai cũng đều biết.
Năm 1955, với chí nguyện hoằng dương tịnh Độ, hướng dẫn chúng sanh đời mạt pháp, Hòa Thượng thành lập Cực Lạc Liên Hữu, khuyến tấn người niệm Phật, cầu vãng sanh Tịnh Độ. Cực Lạc Liên Hữu được Hòa Thượng khai hóa đã khơi dậy phong trào tu tập, khuyến tấn hành giả tín hướng chỉ quy Tịnh Độ. Hòa Thượng là vị Tổ Sư đương thời chấn hưng Tịnh Tông trong tòa nhà Phật Giáo Việt Nam. Hòa Thượng rất quán triệt Thánh điển, tinh tường y dược Đông Phương, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam thấm nhuần được kinh điển Đại Thừa phần lớn do công trình dịch thuật của Hòa Thượng. “


Tuesday, June 4, 2013

Ngài Văn Thù nghe lời Đức Phật đi thăm ngài Duy Ma Cật bị bịnh


                                       -------------------------------
Trưởng giả Duy Ma Cật là một cư sĩ tại gia đang bị bịnh thầm nghĩ rằng :
Nay ta bịnh nằm ờ giường,Thế Tôn là đấng đại từ, lẽ đâu không đoái lòng thương xót.
Phật biết ý ông lền bảo các đại đệ tử đến thăm ngài Duy Ma Cật. Nhưng tất cả đại đệ tử Xá Lợi Phất, Mục Kiều Liên, Đại Ca Diếp,Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na, Ma Ha Ca Chiên Diên, A Na Luật, Ưu Bà Ly, La Hầu La, Anan, Bồ Tát Di Lặc, Đồng Tử Quang Nghiêm, Bồ Tát Trì Thế,Trưởng Giả Tử Thiện Đức đều từ chối với lý do  “ không kham lảnh nổi.”

Lúc bấy giờ Phật bảo Văn Thù Sư Lợi :
- Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.
Văn Thù Sư Lợi bạch Phật :
-          Bạch Thế Tôn, bực thương nhơn kia khó bề đối đáp, vì ông ấy rất thông đạt thật tướng, khéo nói pháp mầu, trí tuệ vô ngại, biện tài thông suốt, rõ thấu phương pháp tu trì của tất cả Bồ Tát, thâm nhập kho tạng bí mật của chư Phật, hàng phục các ma, thần thông tự tại và trí tuệ phương tiện đều đặng rốt ráo. Tuy thế, con xin vưng thánh chỉ của Phật đến thăm bịnh ông.

Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi cùng các Bồ tát, Đại Đệ Tử và các hàng Thiên Nhơn cung kính đi vào đại thành Tỳ La Dy.
Lúc ấy, trưởng giả Duy Ma Cật thầm nghĩ : Nay đây ngài Văn Thù Sư Lợi cùng đại chúng đồng đến viếng thăm, liền dùng thần thông làm cho căn nhà trống rổng, không có vật chi và cũng không có thị giả, chỉ để một chiếc giường cho ông nằm bịnh.

Khi ngài Văn Thù bước vào nhà , ông Duy Ma Cật chào rằng :
Quý hóa thay ngài Văn Thù mới đến. Tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy.

Ngài Văn Thù nói :
Phải đấy cư sĩNếu đã đến tức là không đến nếu đã đi tức là không đi . Vi sao ? Đến không từ đâu đến, đi không đến nơi đâu, hễ có thấy tức là không thấy.- Thôi việc ấy hãy để đó.-

̣̣̣( Trích từ Kinh Duy Ma Cật - Hoà Thượng Thích Huệ Hưng dịch và in năm 1951 tại Chùa Tuyền Lâm , 265 Đường Lục Tỉnh Chợ Lớn.)