Dịch giã :
Hoà Thượng Thích Trí Tịnh
Tóm lược phẩm
Kiêù Trần Như
Trước
giờ Đức Phật nhập Niết Bàn có một nhóm đông ngoại đạo gồm 2 Bà La Môn và 7 Phạm Chí ra mắt
vua A Xà Thế để xin phép đến
luận nghị với Đức Phật mà họ
gọi Cù Đàm vì bất bình với
Đức Phật đã đến chỗ ở của họ tại rừng Ta La tuyên bố rằng thân nầy là thường, lạc,
ngã, tịnh để khuyến dụ hàng đệ
tử của họ.
Vua
A Xà Thế can ngăn :” Hôm nay các
ngài do ai bày vẽ mà tâm trí cuồng lọan chẳng định như vậy ? Khác
nào nước nổi sóng,vòng lữa xoay, khỉ vượn leo cây, thiệt đáng hổ
thẹn .
Người
trí nghe được việc nầy tất sẽ xót thương cho các ngài. Kẻ ngu nghe
biết tất sẽ chê cười các ngài. Lời nói của các ngài chẵng phải là
lời của người xuất gia. Các ngài nếu mang phải bịnh tật, ta đều có
thuốc trị lành được.Nếu như mắc binh ma quỉ, thời anh ta là Kỳ Bà có thể trị được….”
Nhóm
ngoại đaọ thay nhau nêu ra nhiều lý do nên vua A Xà Thế nói :” Các ngài nếu chẳng tin theo lời của ta,
Đức Như Lai chánh giác hiện đang ở trong rừng Ta La, các ngài có thể qua đó tuỳ ý vấn nạn, Đức Như Lai
sẽ giải thích vừa ý các ngài.”
Liền
đó vua A Xà Thế cùng chúng
ngoại đạo đến chỗ Phật. Vua đầu mặt làm lễ đi nhiểu ba vòng ngồi
qua một bên bạch Phật rằng : “ BạchThế Tôn ! các nhà ngoại đạo nầy
muốn tuỳ ý vấn nạn, xin Đức Như Lai tuỳ ý đáp đó.”
Phật
nói : “ Nầy đại vương ! Như Lai tự
biết phải lúc ”
Vì
đã thấy trước việc nầy nên trước khi vua A Xà Thế dẫn nhóm ngoại đạo tới, Đức Phật bảo ngài Kiều
Trần Như chuẩn bị lo cho họ quy y.
Nhóm
ngoại đạo 9 người gồm có Bà La Môn Xà Đề Thủ Na, Phạm Chí Bà Trư Tra, Phạm Chí Tiên Ni, Phạm Chí họ Ca Diếp, Phạm Chí Phú Na, Phạm Chí tên Thanh Tịnh,
Phạm Chí Độc Tử, Phạm Chí Nạp Y và Bà La Môn Hoằng Quảng .
Mỗi
người nêu ra một đề tài riêng biệt để luận nghị với Đức Phật . Sau khi
nghe Phật giải đáp , bảy người chứng quả A la Hán tại chỗ liền xin Phật cho quy y.
Ngài
Độc Tử nghe lời Phật ra rừng Ta La
tu tập hai pháp chỉ quán,
chẳng bao lâu được quả A La Hán.
Riêng
Phạm Chí Bà Trư Tra cảm thấy
hổ thẹn vì đã xúc phạm gọi đức Phật là Cù Đàm nên xin tự huỷ diệt mình để sám hối. Bà Trư Tra hiện thần thông khi đang
được hỏa tán vì đã chứng quả A la
Hán.
Người
sau cùng trong nhóm ngoại đạo luận nghị với Đức Phật là Bà La Môn Hoằ̀ng Quảng.
Sau
khi Đức Phật giải đáp những thắc mắc của Hoằng Quảng, Kiều Trần Như nói :
“ Lành thay ! lành thay
! ông có thể phát tâm vô lượng lớn.”
Phật nói : “ Nầy Kiều
Trần Như Ông Bà La Môn Hoằng Quảng
nầy chẳng phải mới phát tâm vô thượng. Thuở quá khứ cách đây vô
lượng kiếp có Phật ra đời hiệu Phổ
Quang Minh đầy đủ mười hiệu, ông Hoằng
Quảng nầy ở chỗ đức Phật đó đã phát tâm vô thượng bồ đề. Trong
hiền kiếp nầy Hoằng Quảng sẽ
được thành Phật. Ông ấy từ lâu thông đạt pháp tướng, vì chúng sanh
mà hiện ở ngoại đạo. Do đây nên Kiều
Trần Như chẳng nên khen ông ấy là hiện nay có thể phát tâm vô
thượng ”
Ở
ngòai rừng Ta La có một Phạm Chí tên Tu Bạt Đa La đã 120 tuổi , đạt ngủ thông nhưng chưa bỏ kiêu
mạn, được phi phi tưởng định cho là nhứt thiết trí, đã được Niết
Bàn.
Đức
Phật biết Tu Bạt Đa La là đệ
tử cuối cùng nên sai Anan đến
gặp Tu Bạt Đa La nói rằng :
“ Đức Như Lai ra đời
như Hoa Ưu Đàm. Giữa đêm nay Đức Như Lai sẽ nhập Niết Bàn. Nếu có chỗ
phải làm nên làm kịp thời, chớ để ngày sau sanh lòng hối hận. Ông
nói Tu Bạt Đa La sẽ tín thọ. Vì ông thuở quá khứ đã từng 500 đời
làm con trai của Tu Bạt Đa La. Lòng thương yêu của ông ấy vẫn còn, nên
có thể tín thọ lời của ông”
A Nan tuân lời Phật đến
nói với Tu Bạt Đa La.
Tu Bạt Đa La bảo rằng : “ Lành thay ! Thưa ngài A Nan. Nay
tồi sẽ đến chỗ Như Lai.”
Sau
khi hỏi Đức Phật vài câu và được nghe pháp thậm thâm vi diệu, được
pháp nhãn thanh tịnh, bỏ tà kiến xin xuất gia.
Phật
nói : “ Lành thay ! Lành thay ! Thiện
Lai Tỳ Kheo ! “
Tu Bạt Đa La vui mừng hớn hở , râu
tóc tự rụng thành tướng Sa Môn, dứt hết
phiền não đặng quả A La Hán.
Tu Bạt Đa La sau đó thỉnh Phật tiếp tục ở lại thế
gian dạy dỗ nhưng Đức Thế Tôn nín lặng chẵng hứa.
Tu Bạt Đa La bạch Phật : “ Bạch
Thế Tôn, Nay tôi không nở thấy đức Như Lai nhập Niết Bàn, xin Đức Thế
Tôn cho phép tôi diệt thân nầy trước, rồi sau đó Đức Như Lai sẽ nhập
Niết Bàn.”
Bạch
xong,Tu Bạt Đa La liền ở trước
Phật mà nhập Niết Bàn.
Đức
Phật bảo đại chúng : “ Tu Bạt Đa La
đây đã từng cúng dường hằng sa chư Phật, đã trồng sâu căn lành, do
sức đại nguyện, ông ấy thường xuất gia trong phái ngoại đạo Ni Kiền tử, dùng phương tiện huệ
để dẫn dắt chúng sanh tà kiến cho họ được vào chánh trí.Tu Bạt Đa La nương nơi bổn nguyện
lực, hôm nay được gặp ta sắp nhập Niết Bàn, được nghe chánh pháp,
được quả A La Hán. Đã được quả
rôì lại nhập Niết Bàn.
Từ
khi ta thành Phật độ A Nhã Kiều
Trần Như, đến sắp nhập Niết Bàn độ Tu Bạt Đa La , công việc của ta đã trọn vẹn, dầu ta có ở
mãi cũng không có gì khác với ngày nay .”
Nói
xong Đức Thế Tôn lại xướng : “Lành thay ! Lành thay ! Tu Bạt Đa La vì báo ân Phật mà
nhập Niết Bàn. Đại chúng phải nên cúng dường thi hài của ông ấy và
xây lập tháp miếu.”
--------------------------------------------
Trong
những đề tài nêu ra luận nghị với Đức Phật, đề tài của Phạm Chí họ Ca Diếp
là
thắc mắc rất phổ thông của chúng ta.
Phạm Chí họ Ca Diếp : “ Thưa Cù Đàm ! Nếu người chết lúc chưa thọ thân sau, thọ mạng ở
chặn giữa caí gì làm nhơn duyên ?
Phật
nói : “ Nầy Phạm Chí ! Chính vô minh cùng ái
làm nhơn duyên mà thọ mạng nầy được còn.
Nầy
Thiện nam tử ! Vi có nhơn duyên nên thân là mạng, mạng là thân,vì có
nhơn duyên nên thân khác mạng khác. Người trí chẳng nên một bề nói
rằng thân khác mạng khác.”
=========================
=========================
Tại
sao Đức Phật chọn rừng Ta La thành Câu Thi Na nhỏ bé để nhập Niết Bàn
Phẩm Ca Diếp Bồ Tát và phẩm Sư Tử Hống
Bồ Tát trong Kinh Đại Bát Niết Bàn.
Lý do thứ nhất.
Trong thành Câu Thi Na có ba
mươi muôn lực sĩ tự thị sức mạnh,của nhiều ngạo nghễ không chịu
tùng phục ai.Đức Phật bảo Mục Kiều Liên đến đó giáo hóa trọn 5 năm
nhưng không kết quả. Do đây nên Đức Thế Tôn nói vớ ngài Anan rằng sau 3 tháng nữa Đức Phật sẽ nhập
Niết Bàn.
Các lực sĩ nghe được tin
nầy bèn họp nhau sửa sang đường sá..
Trên đường từ Tỳ Xá Ly
(Vesali) đến thành Câu Thi Na, khi thấy các lực sĩ Đức Thế Tôn liền
hóa thân thành Sa Môn hỏi các lực sĩ :
”Boṇ đồng tử kia đang làm gì thế ?”
Các lực sĩ nổi giận nói
:” Nầy Sa môn ! tại sao ông gọi chúng tôi là đồng tử ?”
Đức Phật trả lời :” Bọn
ông quá đông mà không dời nổi hòn đá nhỏ nhít nầy nên ta gọi đồng
tử có gì quá đáng.”
Các đồng tử hỏi lại Đức
Phật nếu vậy ông phải là bực đại nhơn.
Đức Phật liền dùng 2 ngón
chân hất văng hòn đá ấy làm các lực sĩ kinh ngạc. Đức Phật hỏi các
lực sĩ:” Lý do gì mà các người sửa sang con đường nầy.”
Các lực sĩ nói :” Nầy sa
môn ! Đức Thích Ca Như Lai sẽ do con đường nầy đi đến rừng Ta La mà
nhập Niết Bàn nên chúng ta họp nhau sửa sang.”
Đức Phật liền khen các
lực sĩ :” Lành thay,các đồng tử đã phát tâm tốt như vậy để ta dời
hòn đá cho các ông.”
Nói xong Đức Phật liền
lấy tay bưng hòn đá dời lên giữa hư không làm các lực sĩ kinh sợ rồi
vui mừng và hỏi Đức Thế Tôn hòn đá nầy là thường hay vô thường.
Đức Phật thổi hòn đá tan nát như bụi.
Các lực sĩ đồng cất
tiếng lớn hòn đá là vô thường
và sanh lòng hổ thẹn không còn tâm niệm kiêu mạn. Sau đó Đức Thế Tôn
liền hiện hình Phật Đức Phật vì họ thuyết pháp làm cho tất cả đều
phát tâm vô thượng Bồ đề.
Lý do thứ hai.
Đức Phật nói : “ Nầy thiện nam tử ! Trong thành Vương Xá có vị ngũ thông tiên nhơn tên là Tu Bạt Đa La được 120 tuổi. Tiên nhơn nầy thường tự xưng là
bực nhứt thiết trí sanh lòng kiêu mạn. Tiên nhơn nầy đã vun trồng căn
lành nơi vô lượng chư Phật thuở quá khứ.
Vì muốn điều phục tiên
nhơn nầy nên ta bảo Anan rằng sau
3 tháng ta sẽ nhập Niết Bàn. Tu
Bạt Đa La nghe tin nầy sẽ sanh lòng kính tin mà đến ra mắt ta. Ta
sẽ độ ông chứng quả A La Hán.”
Lý do thứ ba .
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch
Phật.
" Bạch Thế Tôn ! trong 16
nước lớn : thành Xá Bà Đề, thành Bà Chỉ Đa, thành Chiêm Bà, thành
Tỳ Xá Lỵ, thành Ba La Nại, thành Vương Xá, tại sao Như Lai bỏ những
thành lớn ấy mà đến nơi thành Câu
Thi Na nhỏ hẹp xấu xa nầy để nhập
Niết Bàn ?"
Đức Phật noí.
“Nầy thiện nam tử ! Ông
chẳng nên nói rằng thành Câu Thi Na
nhỏ hẹp xấu xa, mà nên nói rằng thành
nầy có nhiều công đức trang nghiêm tốt đẹp ,vì chỗ nầy là chỗ mà
chư Phật và Bồ Tát thường đi đến.Như nhà của người dân hèn, nếu có
vua đi qua, thời nên tán thán nhà nầy là phước đức trang nghiêm, nên
nhà vua mới ngự giá đến. “
Đức Phật nói tiếp rất dài đại ý như sau.
* Từ thuở xa xưa tại thành
Câu Thi Na có vị thánh vương họ Kiều Thi Ca xây dựng thành nầy rất trang nghiêm,
rộng lớn dạy người phụng trì 10
pháp lành.
Đức Phật nghe lời , phát
tâm bồ đề rồi chỉ dạy chúng sanh, giảng nói tất cả pháp đều vô thường biến hoại.
Đức Phật nhớ lại việc
đời trước nên đến nơi đây để nhập niết bàn,cũng là muốn đền đáp ơn
đời trước chính tại chỗ nầy Ngài thực
hành pháp lành phát tâm bồ đề.
* Từ thuở xa xưa thành Câu thi Na hiệu là Câu Xá Bạt Đề có vị thánh vương cai
trị hiệu là Thiện Kiến đã vứt
bỏ ngôi vua vào rừng Ta La tu
tập từ tâm, bi tâm, hỷ tâm, xả tâm.
Đức Phật nói.
“ Nầy thiện nam tử ! Nên biết rằng Thánh Vương Thiện Kiến thuở xưa chính là thân
của ta. Do đây nên ngày nay ta thường ưa thích thật hành 4 pháp, 4 pháp
nầy gọi là chánh định. Do
nghĩa nầy nên thân Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh.”
“ Nầy thiện nam tử ! Vì
cớ trên đây nên hôm nay ta đến nơi thành Câu Thi Na nầy ở trong rừng Ta
la Song Thọ mà nhập tam muội chánh định.”
He Duong / Jan / 2013