WELCOME TO BLOGGER VQGĐC

THÂN CHÀO QUÝ BẠN
CLICK HERE TO OPEN

Tất cả hình ảnh, những hoạt động cùng cơ sở Định Chuẩn rồi cũng cùng với thời gian rơi vào khoảng không
Nếu còn gì rớt lại chỉ là những tình cảm của những con người đã một thời làm việc chung dưới một mái nhà
mà nay đả tản mác khắp bốn phương trời
Ninh Vũ / Phòng Thí Nghiệm VQGĐC

Friday, August 29, 2025

THƠ YÊU QUÊ HƯƠNG CỦA TRÍ THỨC VN

THƠ YÊU QUÊ HƯƠNG CỦA CÔ GIÁO,

  THẦY GIÁO VÀ BAC SĨ VN.

     


                   -------------------

         Nhóm Tác Giã.

1-Cô Giáo Đoàn Thị Dưỡng (VN)

2-Thầy Giáo Đoàn Ngọc Nam họa thơ(USA)

3- Bác Sĩ Tô Đình Đài (USA)

4-Thầy Giáo Nguyễn Đĩnh Tri (VN)

5-Thầy Giáo Tâm Hữu (USA)

6- Chủ nhiệm Blog Viện

    Quốc Gia Định Chuẩn VNCH

    -----------------------------------

1-2-CÔ GIÁO DƯƠNG VÀ THÂY GIÃO

            ĐOÀN NGỌC NAM

               ------------------      

       Đoàn Thị Dưỡng (30/03/2017)

   Trở về tìm lại dấu vết của thơ ấu.

               ---------------------

Ký ức ngày thơ đã theo thời gian nhạt nhòa, lại thêm chiến tranh, dâu bể nên làm sao mà định vị được đâu là Thi Lai, Hà Mật, Phú Bông, Cẩm Lậu...

Năm 1980 khi trở về quê, em chỉ còn nhận ra vườn cũ nhờ bờ giếng hãy còn nguyên vẹn...Bên  tay phải ngôi nhà ông nội em có con đường mới mở.

Đường phía trước nhà không còn nữa, con đường ấymột hướng đến chợ Phú Bông, trước khi đến chợ quẹo phải là ra hướng Xuân Đài, khi nhỏ em có cô bạn cùng lớp cô ấy nói mình là cháu của cụ Hoàng Diệu..

Hướng ngược lại của con đường là 'lên' Cẩm Lậu, nơi em vẫn theo người chị nuôi họ Dương về nhà chỉ khi có giỗ chạp

Chưa đến nhà bà chị mà quẹo phải là đường ra đò Đèo, nơi có ghe đi Hội An, con đường này ngang lò rèn ông Chín Mây [nghe tên thôi chứ chưa bao giờ biết ông và lò rèn], bờ rào nhà ông có nhiều cây hoa trắng, ở quê gọi là hoa muối mà lúc nhỏ em không thích tên đó nên đặt là hoa không tên ! Muốn đi xe xuống Hội An thì ra đò Điện Bình, để đi bộ hay đi xe ra ngả ba Vĩnh Điện rồi đi xe đò xuống phố...con đường dọc theo sông  mỗi năm mỗi hẹp vì dòng sông bên lở bên bồi...

Bây giờ Gò Nổi có bao cầu nối, không cách biệt sao vẫn xa vời...

              ----------------------------------------

                        

        GÒ NỔI

Bóng cầu nối nhịp những bờ xa,

Gò Nổi chẳng còn cách biệt mà !

Đường cũ đổi dời thôi mất hướng,

Vườn xưa thay chủ vắng tường hoa.

Đạn bom dâu bể quê bình địa,

Ký ức thời gian dấu nhạt nhòa.

Hà Mật, Phú Bông rồi Cẩm Lậu...

Nhớ thương chỉ biết nói cùng ta..

    Đoàn Thị Dưỡng / Phú Bông

 

   HOẠ THƠ GÒ NỔI

Gò Nổi một thờ những xót xa

Chiến tranh xáo thịt đã gây mà

Còn đâu dấu tích miền tơ lụa

Xóa sạch tiềm năng đất gấm hoa

Sông nước đổi dòng tình lạc lõng

Xóm làng thay dạng nghĩa phai nhòa

Xuân Đài chốn cũ sao đành bỏ ?

 Canh cánh cõi lòng mãi nhắc ta.

      Đoàn Ngọc Nam / Xuân Đài

  --------------------------------------------------------------

3-Bác sĩ Tô Đinh Đài TX

                   HUYỆN THĂNG-BÌNH

Quê tôi ở tại Thăng-bình

Biển Đông cát trắng, đồi thông gío gào

Hà-lam, chợ Được… lao đao!

Sau 1954, sớm đón chào Tư-do

Tháp Chàm… mây gío liếu lo

Ao Vuông dợn sóng, thước đo tình người

Đập An-lý, dinh thự Thất-Sáu xa xôi

Đất khô, ruộng nước ngạt ngào lúa thơm

Đường Tỉnh-lô  lên chợ Việt-an

Núi Cấm nhón mắt ngó dòm người thân

Giúp đời trôi nổi… tảo tần

Lúa khoai, sắn đậu trong ngân tiếng cười !

Lên Phú-cốc dốc đá chơi vơi !

Xuyên về Tiên-phước non phơi xanh ngàn !

Mây trời   suối lệ chứa chan !

Trường-sơn vai mẹ tảo tần nuôi con..

Còn trời còn nước còn non..

Xa quê nhớ Mẹ, lòng con héo gầy !

Hiền -lộc ơi! Con khôn lớn nơi đây

Cho con nhắn gởi lời đầy nhớ ơn…

      -----------------------------------

4-Thầy Gião Nguyễn Đình Tri

MIỀN TRUNG QUÊ TÔI 

Quê tôi đó, sau lưng rừng núi thẳm

Trước mặt nhìn sóng biển bạc đầu reo. 

Dãi đất thon thon, chia cắt lắm đèo

Đường khúc khuỷu, sông sâu cầu tiếp nối 

Quê tôi đó, xa xưa còn mái rạ

Bom đạn xé vùi rách nát quê hương

Đầu trẻ thơ trắng khắp các nẻo đường

Thân côi cút., tìm cha bên nấm mộ

 

Quê tôi đó đã bao đời gian khổ

Đất khô cằn rớm máu gót nông dân 

Lưng đội trời mặt bám đất bao lần

Để hạt thóc hoá vàng trong nước mắt 

Quê tôi đó đông về mưa gió rét

Ngọn heo may tê tái chợt quay về

Bão điên cuồng san phẳng khắp vùng quê

Người than đất, than trời trong bể khổ 

Quê tôi đó lũ về sau bão tố

Nước nhấn chìm làng xóm biến thành sông

Người chơi vơi trên mái lá bềnh bồng

Nuốt cay đắng quên bao ngày thiếu bửa

 

Quê tôi thế nhưng tình người chan chứa

Chia xẻ mặn nồng , giũ đất ông cha

Tai ách hàng năm lần lượt đi qua

Vẫn đứng đậy cầm tay nhau đi tiếp

NĐT 

                        ----------------------

    5- Thầy gião Tâm Hứu.     
        Ai về xứ Quảng
Có ai về Đà Nẵng,
Ghé giúp bến sông Hàn,
Xem còn chuyến đò ngang,
Đưa khách qua An Hải?

               Có ai về Hội An,
               Nhờ tới bờ sông Hoài,
               Uống dùm ly chanh mía,
               Khi nắng chiều sắp phai.

Cố ai về Hà Lam,
Lên Quế Sơn, Trung Phước,
Xem lũ đá ngoài đồng,
Còn như đàn trâu nước?

              Có ai về Kỳ Hà,
              Thăm lại nơi ghềnh đá,
              Xem đêm Đông sóng cả,
              Lòng có còn lao xao?

Có ai về Tam Kỳ,
Ngược đường lên Tiên Phước,
Khi qua chợ Cây Sanh,
Bát chè xanh dừng bước?

              Tôi không là người Quảng,
              Nhưng yêu dải đất nầy.
              Bốn mùa mưa, nắng, hạn,
              Mà thắm đẫm tình người...

               Tâm Hữu-Lê Đĩnh Thọ

-----------------------------------------------------------

6-Chủ nhiệm Blog Viện

    Quốc Gia Định Chuẩn VNCH

          Kỹ Sư Dương Hiễn Hẹ

          (Aka Henry Hiên Dương)

                        ---------

        Cỏn gì đê nhớ để thương ?

 Tuổi già chỉ có quê hương nhớ hoài.

      Nhơ thương quê Mẹ Hải Châu,

Nơi cồn Thạch Gián chổ tôi chào đởi.

      Những hinh bóng cũ thiếu thời,

   Sông Hàn, biển núí gửi lời vấn an.

        Quê nội gôc quận Điện Bàn

     Lang xưa Cẫm Lậu cận kề Phú Bông.

          Ngay nay đã có từ đương.

     Nhớ ơn Tiên Tổ họ Dương nơi nây.



Từ đường tộc Dương Hiền tại lang Cầm Lậu, Quận Điệ́n Ban,Tỉnh Quảng Nam.
GÒ NỔI S̀ÔNG THU B̀ỔN.


Saturday, August 23, 2025

QUÊ HƯƠNG TÌNH QUẢNG NAM CÓ GI ĐẶC BIỆT.

QUÊ HƯƠNG TÔI QẢNG NAM

          CÓ GÌ ĐẶC BIỆT.

    Tác giã  Thi Sĩ Tương Linh



          -------------------

Thi sĩ Tương Linh tên là Nguyễn Linh sanh năm 1931 tại lang Trung Phước, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.Năm 1954 Tương Linh ra Huế rồi vàò Saigon năm 1956 và phục vụ trong QL/ VNCH  trước 1975.

    -----------------------------------

Bài thơ rất dai tựa đề “ NHỚ HAI MIỀN HUẾ QUẢNG” nhưng về tỉnh Quảng Nam thì bắt đâu như sau .


Quê hương tôi bên ni đèo Hải
Nhấp nhô bóng thuyền Cửa Đại
Già nua nếp phố
Hội An
Ngũ Hành Sơn năm cụm ngóng sông Hàn
Chùa Non Nước trầm tư hương khói quyện.
Đêm
Đà Nẵng vọng về cơn sóng biển
Bún Chợ Chùa thương nước mắm Nam Ô
Tôi muốn về Trung Phước giữa mùa ngô
Thăm quê ngoại Đại Bình cam đỏ ối
Sớm Duy Xuyên tơ vàng giăng nghẽn lối
Chiều Điện Bàn xe đạp nước thay mưa
Sông Thu chẳng thiếu đò đưa
Bùi khoai
Tiên Đoã, mát dừa Kiến Tân
Quế Sơn núi liếp mấy tầng
Thương
bòn bon Đại lộc, nhớ rượu cần Trà My.

Một người đi, vạn người đi
Đưa chân tám hướng mà ghi vết đời
Thuỷ triều sông Cửu đầy, vơi
Nước tìm biển cả, tình người tìm nhau
Hai miền thương, một nhịp cầu
Ga xưa còn nhớ con tàu viễn phương?
"

         ----------------

Phần đầu của bài thơ.

Nhớ hai miền Huế - Quảng
      -------------------
"Nửa đêm tôi choàng dậy
Tiếc hoài một giấc mơ…
Trời khuya vắng lặng, trăng mờ
Xóm chài thiêm thiếp bên bờ Cửu Long…

Ra đi một sớm mai hồng
Bỏ lại sau xe những màu khăn vẫy biệt
Ờ nhỉ, sao mà tha thiết
Ngọt sao những mẩu ân tình!

Tôi nhớ về đất Huế xinh xinh
Có người em nghiêng nghiêng vành nón lá
Áo tím, áo lam rập rờn nắng hạ
Em dịu lành như dáng trúc Kim Long
An Cựu triền miên nắng đục,mưa trong
Chiều văng vẳng tiếng
chuông chùa Thiên Mụ
Dòng Hương Giang ngày nay, chuyện cũ
Duyên nào trao qua mấy nhịp
Trường Tiền
Những bình minh chấp chới cánh chim hiền

Ai nỡ cấm thơ ca tình
Vĩ Dạ?
Trang ký ức giờ đây còn rõ quá:

Những chiều buồn bước ngược dốc
Nam Giao

Ngày tôi đi, đường rải xác hoa đào
Ai thỏ thẻ: trông anh ngày trở lại."

Tiếp nối theo như sau.

"Quê hương tôi bên ni đèo Hải
Nhấp nhô bóng thuyền Cửa Đại

........ .......................................

 Hai miền thương, một nhịp cầu

Ga xưa còn nhớ con tàu viễn phương?  

Tiền Giang, mùa măng cụt 1958 ."

----------------------



Thursday, August 14, 2025

SỐNG THEO ĐẠO TRỜI.

 

SỐNG THEO ĐẠO TRỜI

TRÍCH TRONG TẬP THƠ TÌM ĐƠI SỐNG CÓ Ý NGHĨA (USA,Aug-08-2013)

Tác giã  Bác Sĩ Y Khoa Tô Đinh Đài

                ---------------------




        “Công cha như núi Thái sơn “

“Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra “

        “Một lòng thờ mẹ, kính cha”

“Cho tròn đạo Hiếu mới là đạo con”

 

       Đạo KHỔNG in nét vàng son !

Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín…chu toàn nghĩa nhân

       Công Dung Ngôn Hạnh góp phần…

Lữ hành đất khách… Gia đình an vui !

 

       Đạo PHẬT…cũng ở dưới trời !

Trái tim Đức hạnh…xây đời vinh quang !

       Tu thân, Tích đức…mộng vàng !

Giải thoát Bản ngã…Niết Bàn nở hoa !

 

       Đạo CHÚA…lời ngọc ý ngà

Cao sang , quyền qúy…con CHA trên trời !

       Cho con cuộc sống tốt tươi !

Hoàng tữ, Công chúa…đời đời cao sang !

 

        Tạ ơn Cha… ở Thiên đàng

Sanh thành, nuôi dưỡng…đàn con cỏi trần !

         Tình Cha…Bể ái, trời ân !

Sao Mai rạng rỡ…trong ngân ý đời !

 

Friday, August 8, 2025

CÂY TA LA SONG THỌ RẤT QUÝ CẦN BIẾT.

TÌM  HIỂU CÂY TA LA SONG THỌ

Cây Ta La tiếng Anh goị la Sal Tree.

Tên khoa học  goị Shorea Robusta.

Cao khoảng 30- 35 mét.

Thân có đường kính trung bình 2- 5 mét.

Tuổi thọ của cây là 19-40 nâm. Muốn lấy gổ thì chờ 15-25 năm.

Lả cây dài 10-25 cm, rộng 15-25 cm, màu xanh đậm xuất hiện từ tháng 2 tới tháng năm dương lịch.

Cây có hoa màu đỏ nâu và trắng rất đẹp. Hoa trờ thành trái lớn như trái dừa nhỏ chín vào muà hè.

Trồng 10-45 cây chỉ có một cây sông.

Lá cây có chứa nhiều thuốc trị bịnh ngứa tai, ho, nhức đẩu.

Vỏ cây cho chất detergent.Bột nghiền của vỏ cây tao chẩt cầm máu và làm lành vết da bị cắt.

Gổ cây rất quỹ đứng hàng nhĩ sau gổ teak của Việt Nam.

Thursday, August 7, 2025

PHƯƠNG PHÁP ĐỨC PHẬT THÍCH CA NHẬP NIẾT BÀN

 

PHƯƠNG PHÁP ĐỨC PHẬT NHẬP NIẾT BÀN.

          Tại rưng cây Ta La Song Thọ



-----------------------------

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN-CUỐN 1 VÀ 2

HT Thích Trí Tịnh dịch từ Hán sang Việt

      -------------------------

Phẩm Ưng Tận Hườn Nguyên-Trang 581

Đức Thế Tôn nghịch thuận nhập thiền định siêu việt xong, lại bảo đại chúng : “ Ta dùng Ma Ha Bát Nhã xem khắp ba cõi tất cả nhơn pháp hữu tình vô tình thảy đều rốt ráo, không hệ phượckhông giải thoát, không chủ, không y, không thể nhiếp trì, chẳng ra ba cõi, chẳng vào các cõi, bổn lai thanh tịnh không cấu nhơ, không phiền não, đồng như hư không, chẳng bình đẳng chẳng phải chẳng bình đẳng, dứt hết những động niệm tư tưởng tâm thứcPháp tướng như vậy gọi là 
Đại Niết Bàn, thấy rõ được pháp tướng nầy thời gọi là giải thoátphàm phu chẳng thấy biết thời gọi là vô minh.

Nói xong Đức Phật lại nhập thiền định siêu việt xuất sơ thiền nhập tam thiền nhẫn đến nhập diệt tận định, xuất diệt tận định nhẫn đến nhập sơ thiền.

Nghịch thuận nhập thiền định siêu việt xong, Đức Thế Tôn lại bảo đại chúng : “ 
Ta dùng Phật nhãn xem khắp ba cõi tất cả các pháp, thể tánh của vô minh vốn là giải thoát, tìm khắp mười phương trọn không thể được.

 Vì cội gốc đã không nên nhánh lá thảy đều giải thoát. Vì vô minh giải thoát nên hành đến lão tử đều được giải thoátDo đây nên ngày nay ta an trụ thường tịnh diệt quang gọi là Đại Niết Bàn”.

Sau khi ba lần thuận nghịch nhập các thiền định cùng phổ cáo đại chúngđức Thế Tôn nằm nghiêng bên hữu trên giường thất bảo : Gối đầu phương bắc, chưn chỉ thẳng phương Nam, mặt hướng về phương Tây, lưng day qua phương Đông.
Bốn phía giường, 
tám cây Ta La chia làm bốn cặp : Một cặp phương Tây ở trước mặt Như Lai, một cặp phương Đông che sau lưng Như Lai, một cặp phương Bắc che trên đầu Như Lai, một cặp phương Nam đứng phía chưn Như Lai.
Lúc đó đúng giữa đêm Đức Như Lai nằm trên giừơng thất bảo trong rừng Ta La nhập tứ thiền yên lặng mà Bát Niết Bàn.
Liền đó bốn cặp cây Ta La : Cặp hướng Đông, cặp hướng Tây ngọn 
bốn cây hiệp làm một tàng, cặp hướng Nam, cặp hướng Bắc ngọn bốn cây hiệp làm một tàng, che giừơng thất bảo trùm trên thân Như Lai.

Những cây Ta La đó, tất cả lá biến thành sắc trắng như bạch hạc, nhánh lá bông trái da và thân cây thảy đều rụng rớt nức nẻ, lần lần khô héo gãy rớt.