BRAIN WAVES AND HEART
ELECTROMAGNETIC FIELD
Mục đích của bài nầy giúp chúng ta hiểu được phần nào
những vấn đề sau:
* Đo điện trường của thân để biết sức khoẻ và bịnh của
mình (Measuring the electro field around the body will provide the state of
physiology and pathology).
* Khi gặp một người không quen biết tại sao chung ta cảm
thấy vui thích muốn gặp hoài hay rất khó chịu không muốn gặp lại nữa.
* Các Đại Sư có thể đọc được tư tưởng của chúng ta.
* Trong tương lai gần, tư tưởng của chúng ta có thể hiện
bày trên computer gọi là ”mind reading”
('It is conceivable that in the next ten
years (mind reading) could happen. I think it’s a question of when rather than
if, but at the moment the technical difficulties are very large,' Jan Schnupp, professor of neuroscience at
Oxford University”)
------------------
1-BẢY LOẠI SÓNG
ĐIỆN CỦA NÃO BỘ.
Não bộ của chúng ta luôn luôn có sóng điện phát ra do sự
hoạt động của hoá chất trong hệ thống dây thần kinh và tế bào neuron
của não.
Naõ bộ của chúng ta có khỏang từ 100 tới 200 tỷ tế bào
thần kinh neurons.Mỗi neuron nối liên lạc với 7,000 tới 20,000 neurons khác.
Vận tốc điện di chuyển trong dây thần kinh đo được khoãng
120 mét/giây.
Nhờ có máy đo EEG (electroencephalograph), các khoa học gia
đã tìm thấy sóng điện của não bộ (brainwaves) của chúng ta gồm có 7 lọai xuất hiện cùng một
lúc.
Người đầu tiên phát
minh
máy EEG vào năm 1929, là Hans Berger khoa
học gia gốc Germany chuyên môn về tâm thần và não bộ (neuropsychiatrist)
tại Đai Học Jena ở Germany.
Máy EEG là loại máy rẻ tiền nhất nhưng rất tốt dùng đo sóng
điện của não bộ. Khi ai nói đến sóng điện của naõ bộ, chúng ta
nghĩ ngay đến việc đo bằng máy EEG.
Loại sóng nào xuất hiện với biên độ (amplitude. The amplitude of a wave is the distance
from the centre line to the top of a crest or to the bottom of a trough.) trội hơn hết thì
não bộ đang ở trong trạng thái của loại sóng đó. (The
dominant frequency of any wave in the EEG is determined the current state of
our brain).
Tần số sóng tính theo Hertz (cycles per second).
1-Infra-Low Waves
có
dưới 0 .5 Hz. Nhiệm vụ xuất hiện chưa được tìm ra rõ
ràng. Hình như loại sóng nầy liên hệ tới đồng hồ thời gian trong não.
2-Delta waves có 1-4 Hz.Xuất hiện trong lúc thiền định hay ngủ
không có mộng.
3-Theta waves có 4-7 Hz. Xuất hiện lúc ngủ thấy mộng.
5-Alpha waves có 7-13 Hz. Xuất hiện lúc không suy nghĩ.
6-Beta waves có 13-70 Hz. Xuất hiện lúc tính tóan, suy nghĩ, báo
động, giai quyết vấn đề khó khăn.Loại sóng nầy rất thường xuyên xuất
hiện lúc chúng ta tỉnh thức cho nên được gọi là “prevalent waves of
alertness and wakefull state”.
7-Gamma waves có 30-42 Hz.Đây là loại sóng nhanh nhất truyền đạt
tin tức giữa các bộ phận trong não.Xuất hiện trong não của các bậc
đạo đức cao thượng,có tình thương bao la trãi rộng. Bí mật còn đang
trong nghiên cứu.Sóng gamma khó phát hiện vì biên độ (amplitude) quá
thấp.
Đây là hình sóng điên phát ra cùng một lúc từ não bộ đo bằng máy EEG rất thông dụng và rẻ tiền. |
2- ĐIỆN TỪ TRƯỜNG
CỦA QUẢ TIM.
Ngoài não bộ, quả tim của chúng ta cũng là chỗ phát sóng
điện. Trong
tim của chúng ta có khoãng 40 ngàn neurons goị
la sensory neurites khác với neurons của não để
điều hòa nhịp đập của tim và phát ra điện từ trường mạnh hơn điên
từ trường của não 5 ngàn lần.
Điện từ trường của tim phát ra theo nhịp độ
rất đều( rhythmic electromagnetic field) có thể thu nhận dễ dàng ở
khoãng cách xa quả tim 90 centimeters mà
không cần phải gắn các điện cực electrodes vào quả tim.
Neurites trong tim liên lạc nhận
mệnh lệnh của neurons trong não. Dr Andrew Amour chuyên khoa thần kinh
tại Canada gọi hệ thống neurites là “Bộ
Não Nhỏ trong quả Tim-The Little Brain in the Heart” của
chúng ta.
Theo thống kê qua kinh nghiệm của những người
đã được ghép tim từ người khác đã cho tim thì người được ghép tim
có cảm giác, tình cảm và ham thích khác lạ từ người đã cho tim
truyền đạt lại.
Như vậy sóng điện não có đặc
tính ghi chép sóng điện của quả tim rồi phát lại.
3-SÓNG ĐIỆN NÃO
CÓ BIẾN MẤT TRONG KHÔNG GIAN KHÔNG ?
Hãy nhớ lại có nhiều lần khi chúng ta đến một nơi mà
chúng ta chưa đến trước đây nhưng chúng ta có cảm nhận rất quen thuộc
như đã đến rồi.
Tại sao? Nơi chúng ta đang đứng đã có người đã đứng hoặc
đã đứng rất gần đó trước chúng ta,nên sóng điện não của chúng ta
đã bắt được sóng điện não của người đó mặc dầu người đó không còn
ở chỗ chúng ta đang đứng nữa.
Đã có những trắc nghiệm cho biết sóng điện não của chúng
ta có khả năng thu nhận và phát ra sóng điện não của người khác. Đó
là lý do khi đứng trước một người có tâm đau khổ, tâm của chúng ta
cảm thấy xúc động muốn chia xẻ.
Ngoài ra, sóng điện não còn có đặc tính nối tiếp với
sóng điện khác dựa vào trắc nghiệm như sau.
* Trước khi mở cữa chiếc xe hơi có trang bị hệ thống mở
cữa xe bằng remote control, chúng ta dò dẩm chọn một khoảng cách xa
vừa đủ để không thể mở cữa được với remote control.
* Ở khoảng cạ́ch đã chọn,chúng ta đặt remote control gần đầu của chúng ta rôi
bấm remote control thì cữa xe liền mở ngay.Như vậy sóng điện não là đoạn nối dài thêm( extension) của sóng điện
remote control.
Sóng điện não là electromagnetic waves nên di chuyển trong vủ
trụ với tốc độ của ánh sáng.Vì vủ trụ chứa đầy sóng nên các sóng
trong vủ trụ va chạm với sóng điện não tạo ra interaction làm thay đổi đặc tính của sóng nhưng vì sóng điện
não có năng lượng thấp (low energy) nên sự va chạm không
tạo ra hậu quả ảnh hưởng tới sự thay đổi.
Ngoài ra chúng ta cần nhớ tất cả các
hạt (particles) trong vủ trụ mặc dầu di chuyển theo cùng tốc độ ánh
sáng nhưng hạt sau không thể đuổi kịp hạt trước vì vủ trụ đang giản
nở quá nhanh (Expanding very quickly) làm khoảng cách giữa những hạt
càng thêm cách xa nhau nên không thể va chạm nhau.
Khi đã biết đặc tính của sóng điện não, chúng ta liền
nhớ ngay tới vấn đề tư tưởng thiện hay không thiện đã phát ra trong
quá khứ vẫn còn trong vủ trụ.Nếu có máy thu nhận sóng điện não để
chuyển thành âm thanh hay chữ viết sẽ thấy được tư tưởng quá khứ và
hiện tại của chúng ta.
(How to convert brainwaves into words
displaying our thoughts on computer?)
Năm 2011,lúc trên đầu của những người
tình nguyện có gắn điện cực electrodes nếu chỉ nghĩ tới những âm
thanh của những chữ nguyên âm (vowel sounds) thì mủi tên cursor của monitor chỉ đúng những
chữ đó.
Khi ngươi
tình nguyện lắng nghe âm thanh của những chữ, sóng não chuyển qua
electrodes đã gắn trên não rồi ghi vào computer.
Thiết lập
một tự điển chứa những chữ phù hợp với sóng phát ra từ electrodes .
Khi người tình nguyện muốn nói ra chữ nào, chúng ta sẽ thấy sóng của chữ đó xuất hiện trên computer.
Khi người tình nguyện muốn nói ra chữ nào, chúng ta sẽ thấy sóng của chữ đó xuất hiện trên computer.
Với phương pháp nầy khi chúng ta nghĩ đến chữ nào
thì computer sẽ chọn sóng phù hợp với chữ đó
Ghi chép sóng điên não của một
người tình nguyện (volunteer) đã nghe một người khác nói chuyển để làm
nền tảng so sánh
Đưa sóng điên não đó vào computer
để đổi ra chữ viết rôi đổi ra âm thanh như lúc người tình nguyện đã nghe (the same words that the volunteer had been hearing).
TÓM LƯỢC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI USA VÀ VIỆN
KYUSHU INSTITUTE OF TECHNOLOGY,JAPAN.
*ĐẠI HỌC UC BERKELEY CALIFORNIA.
Nhóm khoa học gia về não bộ tại đại học UC Berkeley,California có Dr Brian Pasley làm trưởng nhóm đã và đang tiếp tục làm nghiên cứu nầy hợp tác với các khoa học gia của UCB, UC San Francisco, the University of Maryland and The Johns Hopkins University.
Nhóm nghiên cưú
hướng dẫn bởi hai giáo sư Brian Paisley và Robert Knight chuyên môn về não bộ và tâm thần của trường đại học University
of California-Berkeley tìm cách thông dịch sóng điện não thành
chữ viết trên computer(translate the electrical brain waves into words.)
Lúc nghiên cứu, tóan khoa học gia
có 15 người tình nguyện đang nằm bịnh viện muốn được trắc nghiệm.
Brian Paisley tạo ra những computer
programs để nhận ra những âm thanh ghi trong sóng điện não ( recognising
sounds encoded in the brain waves.)
Đặt vòng lưới của máy EEG trên đầu của người tình nguyện rồi
ghi chép sóng điện não phát ra ở vung “Wernicke’s
area”.Trong não bộ, vùng nầy phụ trách hiểu ngôn ngữ (involved in understanding speech).
Cho người tình nguyện lắng nghe một
đọan âm thanh đã thu được của người khác đã nói trong 5 tới 10 phút.
Trong lúc người tình nguyện lắng
nghe,sóng điện não được ghi chép trong computer.
Computer chuyển đổi hình của sóng
điện não thành chữ viết.
Computer đã đọc lại chính xác những chữ đã
nghe trong sóng điện não như sau : ‘Waldo’, ‘structure’, ‘doubt’ và
‘property’.
Người tình nguyện phát âm những
chữ trên trong lúc computer thu nhận sóng điên não của họ.Trên computer âm
thanh của mỗi chữ có một mẫu sóng điện não tương ứng.
Sau đó người tình nguyên phát âm
lại để xem xét có phù hợp với sóng đã ghi nhận hay không.
Kết quả có độ chính xác 76-90
phần trăm.
*Tại JAPAN
Đầu năm 2016 ,một toán khoa học
gia hướng dẫn bởi Dr Yamazaki Toshimasa của Viện KYUSHU INSTITUTE OF
TECHNOLOGY đã nghiên cứu thực hiện thành công 90 phần trăm môt
máy chuyển đổi sóng điện não ra các chữ đơn giản bằng tiếng Nhật
được đặt tên Computer Deciphers Words
sau khi trắc nghiệm trên 12 người Nhật gồm đàn ông, đàn bà và trẻ
con.Khi não của họ nghĩ tới chữ nào thì trên computer hiện ra chữ
đó.
5-HAI NGƯỜI Ở CÁCH XA 5000 MILES NÓI CHUYỂN VỚI NHAU BẰNG
SÓNG ĐIỆN NÃO -TELEPATHY COMPUTER INTERFACT
Lần đầu tiên trong lịch sữ nhân
loại, cuối tháng tám năm 2014 các khoa học gia trong nhóm hợp tác
quốc tế gồm có Harvard University, Starlab Barcelona, and Axilum Robotics in
France đã trắc nghiệm thành công hai người ở cách xa nhau
5000 miles (một người ở Strasbourg Pháp và một người ở Kerala State Ấn
Độ) đã liên lạc với nhau bằng sóng điện não gọi là telepathy (thần
giao cách cảm ).
Tóm lược cách bố trí trắc nghiệm.Trắc nghiệm thành công September 2014
Một khoa
học gia cài trên đầu một BCI ở Ấn độ đã gởi tư tưởng gồm vài chữ
vào não bộ của một khoa học gia khác cũng có cài một BCI trên đầu tại
Pháp
* Người
gửi A (Young Spanish Dr Alejandro Riera) ở Ấn Độ gọi là
sender gởi tư tưởng. Sóng điện não của tư tưởng được chuyển qua máy
BCI (gọi là Brain Computer Interfact chứa Standard EEG của Công Ty Neuroelectrics).
* Người nhận B ( Dr Berg ) ở Pháp gọi là receiver mang máy BCI thu
nhận sóng điện não của người gửi. Máy nầy có kèm thêm dụng cụ gọi
là Transcranial
Magnetic Stimulation (TMS) rig. Dụng cụ nầy dùng để kićh thích neurons trong não
bộ bằng từ tính (Magnetism can stimulate regions of neurons) để cho não
chú ý nhận.
* Sóng điện não từ
máy BCI của người A được chuyển tới máy BCI của người nhận B bằng INTERNET như sau.
-Người A tưởng nghĩ
tới di chuyển tay hay chân.Tư tưởng nầy được chuyển ra binary 1 và 0 gửi qua internet tới
ngườ B có mang máy BCI và dụng cụ gọi TMS rig.
-TMS sẽ kich thích vùng VISUAL CORTEX của não bộ để làm
xuất hiện phophene flashes. Bằng cách decoding flashes nầy, người B đọc được tư
tưởng đã gửi của người A. có phosphene flash = 1, no phosphene = 0
-Cấu tạo TMS.
Transcranial
Magnetic Stimulation or TMS phát minh bởi Michael Faraday vào năm 1831 theo nguyên lý magnetic induction dùng để kích thích thần kinh trong não bộ.Có
thể dùng TMS kích thích sâu vào trong não bộ nếu dùng cuộn giây điện
lớn.Điện từ trường sẽ mạnh hơn nếu gần sát cuộn giây.
Hình vẽ bố trí trắc nghiệm "telepathy" giữa Ấn Độ và Pháp
còn tiếp