* Pelican nuôi con bằng máu của nó là chuyện
bịa đặt là chuyện ngụ ngôn (fable) của phươngTây
* Xã hội phương Tây lấy chim pelican làm
biểu tượng cho TỪ THIỆN (emblem of charity )
DỊCH TỪ TIẾNG PHÁP SANG TIẾNG ANH BỞI
lacolombededeuil.deviantart.com/.
“(Lorsque le pélican, lassé-d'un long voyage)
When
the pelican, departed on a long journey
In the evening mists returns to his reeds
His little starvelings running on the bank
To see him from afar dropping to the waters.
Already, thinking to seize and share their
prey
They run to their father with joyous cries
Succouring their beaks on their terrible
goitres
He, reaching with slow steps a raised rock
Protects his dangling throat from his brood,
Sad fisherman, he looks to the skies.
The blood runs in slow waves from his open
chest
In vain has he plumbed the depths of the seas
The Ocean is empty and the shore deserted
To provide food for all he offers his heart.
Sombre and silent, straggled on the pebbles,
His sons share the father's flesh,
In
his sublime love he soothes his sorrow
And, watching his bloody breast drop
On his death-feast he sinks and staggers
Drunk on pleasure, on tenderness and horror.
But sometimes, in such divine sacrifice,
Weary to death from too long pain
He fears that his children will not let him
live
Then he raises himself, opens his throat to
the wind
And, striking his heart with a wild cry,
He splits the night with such a sorrowful
farewell
That the seagulls leave the shore
And the traveller on the beach is stayed,
Sensing his death, and commending him to
God.”
(Sentant passer la mort, se recommande à Dieu)
------------------------------------
Kỹ sư Trần Quốc Dzũng /VN
Khoảng năm thập niên
20-30 thế kỷ 20, mấy
chiếc tàu của hãng Tây “ les messageries fluviales” (công ty tàu thủy
sông rạch” đều lấy tên tiếng Tây. Hai con tàu chạy đường Sóc Trăng-Bạc
Liêu tên : Cicogne (chim diệc) và
“Ibis” (Cò quắm). Còn chạy đường Mỹ Tho- Sốc Trăng thì có chiếc “
Sarcelle” (chim le le), “ Cormoran” (chim cồng cộc), “Pelican” (chim thằng bẻ) v.v.
Chim thằng bè to lớn, nhiều long; chim già sói
còn gọi là chim lông ô vì có lông đen, nhưng lại có cái đầu sói sọi
nên còn gọi là chim già đãy, tiếng Pháp gọi là ‘le marabout’.
Vương Hồng Sễn có thuật lại chuyện ông ta tài
khôn khi ra Huế năm 1958, viếng nhà cụ Ngô Đình Khả,thấy con chim ấy
cắt nghĩa tại sao có tên là già
đãy, không dè ông Ngô Đình Cẩn đứng sau lưng lớn tiếng chỉnh lại
là ‘chim ông lão’. Không biết
người Huế có gọi là ‘chim ông lão’ hay không, chớ dân Nam kỳ lục tỉnh
chỉ gọi là ‘già đãy’ hoặc ‘già
sói’ mà thôi.
Ở lục tỉnh còn thấy có một loại từa tựa như ‘lông ô’,
‘già đãy’ là con ‘chó đồng’.
Chó đồng nhỏ con hơn hai con kia, là loài ăn tạp, ăn đồ sình thúi nên
có lẽ vì vậy gọi là ‘chó đồng’.
Còn chim bồ nông
thì từa tựa chim thằng bè nhưng
nhỏ con hơn. Bồ nông có mỏ bén,
cắn cỏ lác làm ổ. Ổ nằm đưới đất, trái lại chim thằng bè, long ô, chó đồng thì làm ổ trên cây.
Chim bồ nông mái thường đẻ ba trứng một ổ. Trứng trộng trộng
như trứng ngỗng. Chim trống và chim mái thay phiên ấp trứng, bắt cá
nuôi con.
Theo dân ở đây, đánh giá về tính tình, thì chim bồ nông, chim thằng bè thuộc
loại hiền và biết thương con; còn già đãy, chó đồng thì thuộc dân
trời thần, thích cướp mồi chim bồ nông, thằng bè con.
Theo Sách Đỏ Việt Nam (Vietnam Red Data Book-2007)
-
Bồ nông chân xám: Pelecanus
philippensis còn gọi tên khác: lềnh đềnh , thường thấy ờ Bạc Liêu,
Rạch giá, Cà mau.
-
Già đẫy lớn: Leptoptilos Dubius còn gọi tên khác: Già sói lớn, trước
đây ở Nam bộ, sau 1985 gặp rất ít ở rừng tràm U Minh Thượng.
- Già sói nhỏ: Leptoptilosjavanicus còn gọi là Già sói, thường gặp ở Đồng
Tháp Mười, U Minh.
Chưa tìm ra tên khoa học
của chim lông ô và chó đồng dù
giở Sách Đỏ kiếm hoài. Không
biết có phải là giống Cốc đế/Cồng cộc và Điên điển (đang tìm hiểu
thêm vì phải biết tên khoa học mới xác định chính xác). Còn không
thì rất mơ hồ, tỉ như: Về loài chim
“Bố cốc” có thể là rất quen thuộc với người dân miền bắc Việt Nam, nó gắn bó
với làng quê với đồng ruộng và đã đi vào thi ca.
Trong tập thơ Hồng Đức Quốc âm thi tập
các tác gia thời Hồng Đức (1470 - 1497) đã hai lần nhắc đến tên loài chim này:
“ Rừng kia bố cốc còn khuya gióng/Làng nọ nông phu đã thức nằm” -
(Bài Ngũ canh); “ Bẻo lẻo đầu ghềnh con bố cốc
Lênh đênh mặt nước cái đè he.” - (Bài Hạ thử).
Lênh đênh mặt nước cái đè he.” - (Bài Hạ thử).
Hai soạn giả Phạm Trọng Điềm và Bùi
Văn Nguyên phiên âm, chú giải, giới thiệu sách Hồng Đức Quốc âm thi tập
, các soạn giả đã chú giải “Bố cốc: Chim tu hú. Còn các sách
khác, như Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa thì Bố cốc: chè bẻo, quạ đà
dái thay; Đại Nam Quốc ngữ- Bố cốc: Chè bẻo dài đuôi; Dược tính
chỉ nam - Bố cốc: tên dân gian là cái chè bẻo. Tính ôn cam, không
độc, rất bổ giúp cho an thần định chí. Ăn nhiều làm cho người ta ít ngủ.
Vậy thì Bồ cốc là tu hú lại vừa là chẻo bẻo !! làm mình lâm
vào thế bí.
----------------------------------
Kỹ sư Dương Hiển Hẹ / Cali /USA
Chim
Pelican
Tiếng Việt : Bồ Nông
Người viết bài nầy chụp chim brown pelican tại cầu tàu thành phố biển San Clemente California,USA năm 2006 |
Tiếng Latin : Pelecãnus
Tiếng Anh cỗ xưa : Pellicane
Tiếng cỗ Hy Lạp : Pelekan. Tên lấy từ chữ pelekus nghĩa là cái riều vì mỏ
chim giống cái riều.
Tiếng Tây Ban Nha : Alcatraz
Đậc điểm.
Chim có cái mỏ (bill) dài và dưới mỏ có
một cái túi ( pouch) có thể căng phồng ra dùng chứa cá.Túi nầy có dung tích khoãng
11.4 lit́ tương đương 12 quarts.
Mỗi bửa ăn, chim pelican tiêu thụ một
lượng cá cân nặng bằng khoảng 1/3 trong lượng của thân chim.
Chim mẹ nuôi chim con bằng cá tích chứa
trong cái tui.Chim mẹ dùng mỏ ép cái túi đó vào ngực thì cá trong
t́ui tuông ra cho chim con.
Khi cái
t́ui trống rổng thì rất khó thấy vì túi xếp sát dưới mỏ chim.
Chim pelican tại vùng biển California USA
có màu nâu gọi là California brown pelican / Pelecanus occidentalis californicus.
* Loại
chim P. occidentalis có
rất nhiều tại Nam California,là loại nhỏ nhất so sánh với những
loại pelicans khác.
Brown pelican cũng là loại duy nhất chỉ
bắt cá bằng cách phóng từ trên cao
xuống biển.
Túi
chưá cá của brown pelican có dung tích 9.5 lít (2-1/2 gallons).
Chim cân nặng khoảng 2.75
kg, dài 106cm, hai cánh xoè (wingspan) đo
được khoảng 1.83 m.
* Còn loại pelican lớn nhất thường rất hiếm
thấy tại vùng biển California có tên là Dalmatian Pelican (P. crispus) cân nặng 15 kg, dài 183 cm, hai cánh
xoè (wingspan) rộng 3 m.
Khi bay săn mồi, chim bay
lên cao rồi quay đầu qua một bên với một con mắt nhìn chăm chăm xuống
nước cho đến khi nào thấy cá liền phóng xuống rất nhanh bắt được cá
ngay.
Người viết bài nầy đã
từng đứng trên bải cát biển San Clemente quan sát cách bắt cá. của chim
brown pelican.
Thay vì ăn ngay chim
tích chứa cá trong túi rồi tiếp tục săn tìm thêm . Khi túi đầy cá, chim
bay tìm một chỗ vắng đứng ăn ngon lành hoặc bay tới chỗ chim con nếu
có.
Chim
pelican nuôi con bằng máu của nó là chuyện bịa đặt,chuyện
ngụ ngôn (fable)
Chim mẹ tích chứa cá săn được trong túi nằm
dưới mỏ ( bill ).Khi cho chim con ăn, chim mẹ ep mỏ vao ngực thì cá tuông ra.Thấy vậy nhằm
mục đích để giáo dục, người ta bịa đặt ( fable) chim cắt ngực để máu chảy ra nuôi
chim con .
Mỏ chim có một móng màu đỏ, người xưa nói bịa
đặt chim dùng cái móng đó để cắt ngực
nên có màu đỏ của máu.
Vì vậy từ xa xưa, xã hội phương Tây lấy
chim pelican làm biểu tượng cho TỪ
THIỆN ( emblem
of charity
)
* Trong
Viện Bảo Tàng có hình vẽ cho thấy chim
mẹ nghiêng đầu xuống tự cắt ngực để máu chảy ra cho chim con đã chết
sống lại nhờ máu. (The mother revives its dead young with its own blood.)
* Có một số tài liệu tìm thấy tại
British Lbrary kể chuyện chim mẹ pelican giết chim con rồi cắt ngực lấy
máu làm chim con sống lại.
* Trong kinh thánh Psalm 102 có câu
" I am
like a pelican of the wilderness." để nói cho chúng ta biết Đức Chúa
Jesus là Đấng Cứu Thế đã đỗ máu
cho loài ngươi (The pelican is used to indicate Christ Saviour
shedding his blood)