KINH LĂNG
GIÀ “SANKARA SUTRA” CÓ CHỖ LÀM AN TÂM.
Ngài
SUZUKI DỊCH TỪ TIẾNG PHẠN RA TIẾNG ANH NHƯ SAU.
“Lord of Laṅkā, all that is in the world is devoid of work and action because all
things have no reality, and there is nothing heard, nothing hearing.
Lord
of Laṅkā, all that is in the world is like
an image magically transformed. This is not comprehended by the philosophers
and the ignorant.
Lord of Laṅkā, he
who thus sees things, is the one who sees truthfully. Those who see things
otherwise walk in discrimination; as they depend on discrimination, they cling
to dualism. It is like seeing one's own image
reflected in a mirror, or one's own shadow in the water, or in the moonlight,
or seeing one's shadow in the house, or hearing an echo in the valley. People grasping their own shadows of discrimination (21)
uphold the discrimination of dharma and adharma and, failing to carry out the
abandonment of the dualism, they go on discriminating and never attain
tranquillity,”
Tỳ
Kheo Thích Chơn Thiện và Cư Sĩ Trần Tuấn Mẫn dịch
đọan kinh trên ra tiếng Việt như sau.
"Nầy chúa thành Lăng Già, mọi thứ gì ở trong đời nầy
đêu không có tạo, không có tác vì hết thảy các sự vật đều không có
thực tính và không có cái gì được nghe, không có cái gì nghe.
Nầy chúa thành Lăng Già, mọi thứ trên đời nầy đều giống như
một hình ảnh được biến đổi một cách xảo diệu.Các triết gia và kẻ
ngu không hiểu được như thế.
Nầy chúa thành Lăng Già, kẻ nào thấy sự vật theo như thế thì
kẻ ấy là kẻ thấy đúng sự thực.Những ai thấy sự vật khác thế thì
đấy là những kẻ ấy đi vào phân biệt ; vì họ tuỳ thuộc vào phân
biệt nên họ chấp vào nhị biên.Đấy
cũng như nhìn hình ảnh của chính mình phản chiếu trong gương, hay bóng
của chính mình trong nước, hay trong ánh trăng, hay thấy bóng mình trong ánh đèn trong nhà, hay nghe một tiếng dội trong thung
lũng.Người ta nắm níu những cái bóng của phân biệt của chính mình;
duy trì sự phân biệt pháp và phi pháp và do không từ bỏ được như nguyện
nên họ tiếp tục phân biệt và không bao giờ đạt được sự an
tịnh."
HDG
**************************
KÍNH GỬI ĐẠI HUYNH SƯ GIÁC ĐẠO
NHIỆT TÌNH CẢM TẠ ĐẠI HUYNH SƯ VỀ
NHỮNG CÂU THƠ MÀ ĐẠI HUYNH ĐÃ VIẾT VỀ KINH LĂNG GIÀ.
HÔM NAY LÀ NGÀY ĐẦU NĂM DƯƠNG LỊCH
2017, TẤT CẢ CHÚNG TA ĐỀU CÓ THÊM MỘT TUỔI NỮA RẤT LỢI ÍCH CHO
CHÚNG TA NẾU TIẾP
TỤC HỌC PHẬT KINH VÀ THIỀN TỊNH SONG TU.
TRONG MỘT THỜI GIAN DÀI KỂ TỪ LÚC
CÒN TUỔI HỌC TRÒ VÀ SINH VIÊN, ĐỆ RẤT SAY MÊ TÌM HIỂU VẤN ĐỀ TÂM LINH TRONG CÁC TÀI LIỆU VIẾT BẰNG TIẾNG
VIỆT VÀ TIẾNG PHÁP TẠI SAIGON .NHƯNG KHÔNG CÓ TÀI LIỆU NÀO GIÚP ĐỆ
ĐƯỢC "TÂM AN ".
MÃI ĐẾN KHI ĐỆ HIỂU ĐƯỢC KINH LĂNG GIÀ THÌ
ĐỆ MỚI ĐƯỢC "TÂM AN"
TRONG QUÁ KHỨ KINH LĂNG GIÀ ĐƯỢC DỊCH
TỪ TIẾNG HOA SANG TIẾNG VIỆT BỞI 3 HOÀ THƯỢNG LÀ THÍCH THANH TỪ,THÍCH DUY LỰC VÀ THÍCH CHƠN THIỆN.
CÒN DỊCH TỪ TIẾNG PHẠN SANSCRIT
SANG TIẾNG ANH THỈ ̀ CÓ NGÀI
SUZUKI.
CẢ 3 BẢN DỊCH NẦY HIỆN NAY ĐỆ ĐANG
CÓ TRONG TỦ CHỨA KINH SÁCH TRONG NHÀ.
HÒA THƯƠNG THÍCH THANH TỪ DỊCH CUỐN
LĂNG GÌA TRONG ĐÓ CÓ LỜI CHÚ GIẢI CỦA THIỀN SƯ HÀM THỊ năm 1641.
NHỮNG AI ĐÃ HỌC PHẬT LÂU NĂM ĐỀU
ĐỒNG Ý KINH LĂNG GIÀ RẤT KHÓ HIỂU NẾU KHÔNG HỌC DUY THỨC HỌC.NHƯNG KHI ĐÃ HIỂU Y CHỈ CỦA KINH LĂNG GIÀ THÌ HỌ KHÔNG MUỐN TỚI CHÙA PHẬT NỮA.
THEO GHI CHÚ TRONG KINH LĂNG GIÀ
LANKARA SUTRA ĐƯỢC ĐỨC THẾ TÔN GIẢNG TRÊN NÚI CÓ TÊN LÀ LANKA NGOÀI
BIỂN PHÍA NAM CỦA NƯỚC TÍCH LAN CEYLON DÀNH CHO QUÝ NGÀI BỒ TÁT NHƯ
BỒ TÁT CÓ TÊN LÀ ĐẠI HUỆ VÀ CHÚA THÀNH LĂNG GIÀ TÊN LÀ RAVANA.
NGƯỜI CHƯA ĐẠT ĐƯỚC BỒ TÁT THÌ
KHÔNG THỂ TỚI ĐÓ VÌ BIỂN LỚN BAO BỌC CHUNG QUANH PHẢI CÓ THẦN THÔNG
MỚI LÊN ĐƯỢC NÚI ĐÓ.
BÂY GIỜ THÌ LÊN ĐƯỢC BẰNG MÁY BAY
TRỰC THĂNG HIỆN ĐẠI NHƯNG KHÔNG THẤY CÓ NÚI LĂNG GIÀ ĐỂ LÊN...
KINH LĂNG GIÀ LÀM SÁNG TỎ NGHĨA CỦA KINH BÁT NHẢ ,KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN,KINH LĂNG NGHIÊM, KINH HOA
NGHIÊM, KINH PHÁP HOA, KINH VIÊN GIÁC.
NHỮNG AI ĐÃ HIỂU KINH LĂNG GIÀ THÌ
CHỈ CÒN LO ĂN CHAY, TƯ DUY HẰNG NGÀY VÀ NIỆM PHẬT GỌI LÀ THIỀN TỊNH SONG TU NHƯ ĐỨC PHẬT ĐÃ DẠY
TRONG KINH VIÊN GIÁC VÀ KINH LĂNG NGHIÊM.
KÍNH CHÚC ĐẠI HUYNH SƯ GIÁC ĐẠO VÀ QUÝ BẠN
ĐỒNG TU NĂM MỚI 2017 BÌNH AN.
HDG
*****************************
A DI ĐÀ PHẬT
Kinh Lăng Già Tâm Ấn Phật dạy :
Ta thừa phi đại thừa, Phi thuyết cùng phi tự,
Phi đế phi giải thoát, Phi cảnh giới có không !
Song thừa đại thừa này, Được chánh quán tự tại,
Các thứ ý sanh thân, Hoa trang nghiêm tự tại !
Đệ bát địa thời thấy pháp vô ngã,
Giác tự tâm hiện, cảnh giới đều huyễn,
Tự giác chiếu liễu thân tâm chuyển biến,
Hiện tất cả thân như trăng đáy nước !
Đứng trước gương soi thấy sắc thân,
Bóng trong gương biến mất không thân !
Bóng trăng soi đáy nước thanh tú,
Trăng bị mây che bóng nước không !
Tuy huyễn mà ta coi mộng thực ,
Nếu không trăng tất nhiên không bóng ?
Bóng trăng biến hiện vào hư không,
Cũng tựa sắc thân soi bóng gương !
Nhân dịp tân niên Dương lịch 2017, và Tết Nguyên Đán Đinh Đậu, thân gởi lòi chúc tốt lành đến quý vị, suốt năm nhiều may mắn hanh thông, cát tường như ý !
Sa môn Thích Giác Đạo LNQ.
*****************************
*****************************
TÌM HIỂU KINH LĂNG GIÀ VIẾT THEO TÀI LIỆU ĐÃ CÓ.
Người viết bài nầy dựa theo tài liệu đã xuất bản năm
1987 và năm 1994.
Theo tài liệu nghiên cứu của Ngài Suzuki, Kinh Lăng Già dịch
vào khoảng năm 113 bởi ngài Câu Na Bạt Đa La( GUNABHADRA) là bản kinh cổ
nhất, rất phức tạp, rất khó khăn. Đó là bản kinh mà Ngài Huệ Khả đã nhận được từ tay Ngài
Bồ Đề Đạt Ma coi như tâm ấn
của Phật.
1-Dịch
giả Thích Thanh Từ. Xuất bản năm 1975.
Đầu
xuân 1975,xuất hiện Kinh Lăng Già Tâm Ấn có sớ giải của
Thiền Sư Hàm
Thị viết bằng tiếng Hoa được dịch ra tiếng Việt bởi Thiền
Sư Hòa Thượng Thích
Thanh Từ.
Tài liệu cho
biết Thiền sư Hàm
Thị thuộc môn phái Tào
Động, đời nhà Thanh bên Trung Hoa.Môn phái nầy du nhập vào Huế
năm 1696 bởi Hoà Thượng tên là Thạch Liêm người gốc tỉnh Giang
Tây Trung Hoa.
Chúa Nguyễn sai Hòa Thương Nguyễn Thiều sang Trung Hoa thỉnh Ngài Thạch Liêm về ngự tại chùa Thiên Mụ ở Huế để
dạy đạo.Sau hai năm ở Huế, Ngài Thạch
Liêm trở về lại Trung Hoa.Di tích lịch sử nầy còn ghi lại tại
chùa Thiên Mụ Huế.
Năm 1645 Ngài
Kim Vô cùng với chư đệ Thạch Giám đã đến Lảnh Nam để thưa hỏi Ngài Hàm Thị về
Duy Thức học rồi thỉnh Ngài sớ giải. Chưa tìm được tài liệu viết
về Ngài Kim Vô và Ngài Thạch Giám.
Trong cuốn kinh Lăng
Già Tâm Ấn, sớ giải của Ngài Hàm Thị gồm ba phần.
Phần tự giới thiệu về Ngài, phần tổng luận và phần sớ giải viết dưới lời Đức Phật dạy và lời thưa hỏi
của Ravana chúa thành Lăng Già và của Đại Huệ Bồ Tát(Mahamati) .
Khi dịch kinh từ tiếng Hoa ra tiếng Việt, Hòa
Thương Thích Thanh Từ có viết
trong lời tựa câu ”Độc giả thông được bài tổng luận coi như nắm được yếu
chỉ bộ Kinh Lăng Già”
2-Dịch
giả Thích Duy Lực. Xuất bản năm 1994
Dịch giả viết trong lời tựa “Yếu
chỉ của Kinh nây là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại
đạo,...”
3-Ngài
Suzuki viết :
“Chủ đề của Kinh Lăng Già là khai thác nội dung của Ngộ, nghĩa là cảnh giới tự giác của đức Phật,
và cũng là chân lý tối thượng của Đại Thừa giáo. Lạ thật, hầu hết các học giả
nghiên cứu kinh này đều không mấy quan tâm đến điểm chủ yếu ấy, thường chỉ nhấn
mạnh về năm pháp, ba tự tánh của thực tại, tám thức và hai cái không của tự
ngã (42)..........
Cuối chương Phật xác định lại
giáo lý tự giác, tức sự Chứng Đạo của Phật, như vầy:
Đó cũng như nhìn thấy bóng mình trong
gương hoặc trên nước, cũng như nhìn bóng mình trong ánh trăng hoặc ánh đèn, lại
nữa, cũng như nghe tiếng nói của mình dội lại trong thung lũng; hễ vọng cầu thì
có vọng tưởng phân biệt phải trái; hễ có phân biệt phải trái thì không thoát
khỏi thế kẹt hai đầu, tự nhiên chấp cái phải, nên tinh thần không thể “tịnh”
được. Tịnh có nghĩa là lắng sạch hết sở cầu (hoặc hòa đồng với muôn vật); và
lắng sạch hết sở cầu có nghĩa là đi sâu vào định, tự đó phát sanh thánh trí tự
giác, và đó tức là Như Lai Tạng: Tathagatagarba.”
TÌM HIỂU CÂU :
“Tâm của Phật tợ như bóng hiện ra trong gương sáng.”
Người viết bài nầy sau nhiều năm tư duy Phật Kinh đã nhận ra ý chỉ của
Kinh Lăng Già như sau muốn góp ý tóm gọn với quý bạn đạo.
-Tâm của Phật gọi là Thanh Tịnh Như Lai, là Phật Tánh, là Như Lai Tàng tỉ như gương tròn sáng bao trùm tất cả như hư không.
-Tât cả mọi người đều có cảm nhận giống nhau “Ta đang hiện hửu và
không biết gọi là vô minh” chỉ xuất hiện khi có sự gặp nhau giữa
căn thân và trần cảnh mà thôi.
Nếu thiếu căn thân hoặc thiếu trần cảnh thì không có ta đang hiện hửu.
-Khi ôm lấy vô minh cho là ta hay là ngã của ta hoặc là linh hồn của ta thì đối
tượng thường được gọi là ngã sở gồm có căn thân và trần cảnh chính là
bóng của ta, là bóng của vô minh hoặc của mê trong gương Thanh Tịnh Như Lai.
Hoà Thương Thích Thanh Từ dịch Lăng Già Tâm Ấn.
Trang 244-245.
Trang 244-245.
Ngài Hàm Thị viết: “Cảnh giới hiện ra là do mê nên tự tâm vọng hiện ra.
Giác cái mê thì mê diệt, giác chẳng sanh ra mê.Tâm, cảnh trong ngoài một
lúc thanh tịnh.
Đây là hiển bày bí mật, ba đời Như Lai đồng một tâm yếu.Ngàn đời ghi chép
nêu cao”.
“Như lai thấy rỏ tự tánh nên vọng tưởng chẳng sanh.Không tâm năng phược
cũng không cảnh sở phược; năng sở đều dẹp mới là giải thoát.Nếu có cảnh sở
phược ắt có tâm năng phược”
Trang 311.
“Gương dụ tự tâm.Bóng dụ tất cả cảnh giới sắc
tâm do tự tâm hiện ra.Tâm cùng
cảnh tánh nó
không hai...”
-----------------------------
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Hoà Thượng Thích Trí Tịnh dịch Hán Việt .
Phẩm Di Giáo.Trang 566 trong cuốn số
2.Ấn bản năm 2511 Phật Lịch.
“Cội gốc sự khổ từ vô minh khởi lên.Dùng huệ bát nhã hiển bày tánh tịnh,quán sát kỹ cội
gốc thì dứt được tội lổi trong ba cõi.Vì cội gốc vô minh dứt nên vô
minh dứt, vô minh dứt thì hành dứt, nhẫn đến lão tử ưu bi khổ não
đều dứt.
Lúc được quán niệm nầy, nhiếp tâm
đứng dừng thì được nhập tam muội, do sức tam muội được sơ thiền, lần
lượt nhập tứ thiền, không rời chánh niệm, luôn luôn tu tập như vậy,
rồi sau sẽ tự được chứng thương quả thoát khỏi khổ trong ba cõi......
Nầy ANAN ! Đức Như Lai là đấng chơn
ngữ nói lời thành thật, đây là lời phó chúc tối hậu,các ông phải y theo tu hành.”
-----------------------------
Ngài Thiền Sư Mahasi Sayadaw,Nam Tông trong Cuốn Vô Ngã Tướng.
(The Great Discourse On Not Self.)
Ngài so sánh tâm của người ngồi thiền tỉ như gương soi không di chuyển
từ xa tới gần và từ gần ra xa.
“The mediator who notes every phenomenon of seeing, hearing,
smelling, tasting, touching and thinking knows with his own knowledge
that the mind from afar does not come nearer; the near mind does not
go afar.
At respective moments of arising, they cease and pass away.”
còn tiếp
Henry
Dương